Tuy nhiên, để có thể tham gia thị trường carbon một cách bền vững, hiệu quả thì các ngành chức năng cần sớm xúc tiến, triển khai các kế hoạch, giải pháp, khung pháp lý liên quan.
Vẫn còn nhiều thách thức
Thị trường tín chỉ carbon đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Việt Nam giảm đến mức thấp nhất phát thải khí nhà kính, cùng đóng góp vào nỗ lực toàn cầu chống lại biến đổi khí hậu. Tham gia vào thị trường tín chỉ carbon không chỉ giúp giảm chi phí tuân thủ các quy định về môi trường, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Chính phủ Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon như Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Thông tư số 17/2022/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường (trước đây) quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và kiểm kê khí nhà kính lĩnh vực quản lý chất thải là những thí dụ điển hình.
Việc xây dựng các khung pháp lý này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia thị trường tín chỉ carbon mà còn góp phần bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả của thị trường.
Thực tế cho thấy, dù có tiềm năng lớn để phát triển thị trường carbon và khung pháp lý cho hoạt động này đang dần hoàn thiện, song hiện nay việc phát triển thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.
Theo Tiến sĩ Bùi Thị Hoàng Lan, Đại học Kinh tế quốc dân, một trong những nguyên nhân của thực trạng nêu trên trước hết là do tín chỉ carbon hiện tại vẫn là một thị trường mới mẻ ở Việt Nam, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện và tiêu chuẩn chưa rõ ràng.
Do đó, khung pháp lý về thị trường này còn chưa theo được thực tiễn; các quy định chi tiết về giao dịch, định giá tín chỉ carbon và xử lý vi phạm vẫn chưa toàn diện và cụ thể.
Thứ hai là do nguồn nhân lực cho thị trường carbon còn khá mỏng. Hiện tại số lượng và chất lượng nguồn nhân lực am hiểu về phát triển dự án carbon và thẩm định tín chỉ còn thiếu, đây cũng là bài toán đầy thách thức cho quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu.
Thứ ba, hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) vẫn đang trong giai đoạn phát triển và chưa đáp ứng đủ yêu cầu về tính chính xác và minh bạch để đạt được sự công nhận trên thị trường quốc tế, gây khó khăn trong việc theo dõi và xác minh lượng phát thải. Việc thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhân lực phù hợp và chính sách vận hành MRV là một rào cản lớn đối với sự triển khai hiệu quả của thị trường carbon.
Phân tích về thực trạng việc xây dựng khung pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam, Tiến sĩ Thái Thị Thanh Minh, Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho rằng, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone và các văn bản liên quan mới chỉ là khung sườn, chưa có quy định chi tiết về cơ chế giao dịch, thanh toán, giải quyết tranh chấp và nhất là cơ chế định giá thị trường tín chỉ carbon nội địa, dẫn đến sự thiếu chắc chắn cho nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, quyền sở hữu đối với thị trường tín chỉ carbon từ rừng (REDD+) và các dự án hấp thụ carbon vẫn chưa được làm rõ, nhất là mối quan hệ giữa Nhà nước, chủ rừng/chủ dự án và bên mua, gây khó khăn cho việc ký kết các hợp đồng dài hạn.
Cùng với đó, chất lượng của dữ liệu phát thải tại nhiều doanh nghiệp chưa đồng nhất; các tổ chức thẩm định trong nước chưa đáp ứng được số lượng và chất lượng theo chuẩn quốc tế.
Đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường carbon
Trong thời điểm mà mức độ ô nhiễm nghiêm trọng như hiện nay, khi mà việc phát triển thị trường tín chỉ carbon không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc nếu Việt Nam muốn hội nhập sâu rộng vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Đây không đơn thuần là chính sách môi trường, mà là chiến lược hội nhập, gắn kết trách nhiệm với lợi ích kinh tế…
Tuy nhiên, trên thực tế, thị trường tín chỉ carbon ở nước ta vẫn đang trong giai đoạn sơ khai. Mặc dù có tiềm năng lớn, đặc biệt trong các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, nông nghiệp và xử lý chất thải, nhưng thị trường này chưa được định hình đầy đủ, các hoạt động còn manh mún, thiếu sự kết nối.
Những vấn đề này đặt ra yêu cầu cấp thiết về nghiên cứu, tham vấn chính sách, xây dựng các giải pháp đồng bộ nhằm phát triển thị trường tín chỉ carbon hiệu quả, minh bạch và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Tiến sĩ Đinh Thái Hưng, Điều phối viên Quốc gia - Đối tác NDC (Đóng góp do quốc gia tự quyết định) cho rằng, Điều 6 Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu mở ra cơ hội lớn huy động nguồn vốn quốc tế cho các dự án giảm phát thải.
Tuy nhiên, thách thức đặt ra là thiếu cơ chế phân bổ hạn ngạch phát thải minh bạch và chất lượng tín chỉ còn hạn chế.
Ông Hưng nhấn mạnh, khi EU áp dụng cơ chế điều chỉnh biên giới carbon, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ chịu áp lực tuân thủ cao hơn.
Do đó, ông Hưng cho rằng, chúng ta cần chủ động kiểm kê khí nhà kính từ năm 2025 để được phân bổ hạn ngạch hợp lý; có giải pháp phát triển các dự án tín chỉ nội bộ nhằm bù trừ và tạo nguồn thu.
Cùng với đó, cần tận dụng tín chỉ carbon như đòn bẩy tài chính xanh, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn quốc tế và xanh hóa chuỗi cung ứng.
Đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam, hướng tới phát triển bền vững, Tiến sĩ Bùi Thị Hoàng Lan nêu rõ, ngành chức năng cần tiếp tục hoàn thiện các quy phạm, quy chuẩn mang tính kỹ thuật của thị trường như, cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước với khu vực và thế giới phù hợp với các quy định, điều ước quốc tế Việt Nam đã tham gia; thiết lập hệ thống đăng ký quốc gia để quản lý toàn bộ tín chỉ carbon, đồng thời kết nối với các hệ thống, tổ chức tiêu chuẩn trên thế giới.
Bên cạnh đó, cần đào tạo đội ngũ, năng lực quản lý, tổ chức vận hành thị trường carbon. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đáp ứng việc sẵn sàng tham gia thị trường.
Biến đổi khí hậu diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất thế kỷ 21. Do đó, việc xây dựng và phát triển thị trường carbon trong nước theo hướng minh bạch, hiệu quả là công cụ kinh tế quan trọng, thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất theo hướng xanh và bền vững.
Để làm được điều này, theo các chuyên gia trong lĩnh vực môi trường, cùng với việc thực hiện các giải pháp nêu trên, cần phát triển đồng bộ các giải pháp về chính sách, công nghệ, tài chính và hợp tác quốc tế.
Việc hoàn thiện pháp lý, đầu tư vào hệ thống đo thịnh vượng, khuyến khích doanh nghiệp chủ động hội nhập quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu sẽ giúp Việt Nam không chỉ thực hiện cam kết giảm phát thải, mà còn tận dụng được cơ hội kinh tế từ thị trường carbon, thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
-restored-copy.jpg)
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!