Báo Sơn La điện tử - Tin tức cập nhật trong ngày

Trang chủ

Định vị vai trò của các khu vực kinh tế chủ yếu

Nếu ví nền kinh tế Việt Nam như một đoàn tàu đi tới đích, thì kinh tế nhà nước đóng vai trò thiết kế đường ray và hướng đi, kinh tế tư nhân được xác định là động lực để đẩy đoàn tàu đi với tốc độ nhanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được xem là những nhà ga để tiếp năng lượng cho đoàn tàu tiến nhanh về phía đích.

Kinh tế nhà nước luôn khẳng định được vai trò chủ đạo, là nền tảng cơ bản để phát triển các ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước luôn khẳng định được vai trò chủ đạo, là nền tảng cơ bản để phát triển các ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.

Mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là “Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.

Điều này cho phép tồn tại một cấu trúc nền kinh tế đa khu vực và các khu vực kinh tế cần phải được “bình đẳng về tư cách, được tự do kinh doanh”. Ba khu vực kinh tế chủ yếu được xác định, gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Nhân rộng mô hình hay

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Để thực hiện được mục tiêu cao cả nêu trên, các khu vực kinh tế cần có khác biệt về vai trò và chức năng. Sự khác biệt về vai trò và chức năng hoạt động là cơ sở để thực hiện sự phân biệt chính sách nhất định khi các chủ thể đảm nhiệm những chức năng sản xuất, kinh doanh cụ thể trong nền kinh tế. Nhà nước có thể dành sự ưu tiên, ưu đãi cho việc thực hiện một nhiệm vụ chức năng cụ thể, tùy thuộc vào mức độ ưu tiên chiến lược quốc gia dành cho nhiệm vụ đó, tại thời điểm đó, không phân biệt thành phần chủ thể tham gia.

Nhằm mục tiêu phát huy được thế mạnh của mỗi khu vực kinh tế, phù hợp với bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của ba khu vực kinh tế chính của nền kinh tế được định vị: Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực phát triển quan trọng nhất trong phát triển kinh tế quốc gia, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cần nhấn mạnh vai trò là khu vực bổ trợ quan trọng. Tính chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở vai trò định hướng, kiến tạo, dẫn dắt, điều tiết quá trình phát triển để theo đuổi được các mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam (mà các khu vực kinh tế khác không chủ động làm được).

Khác với quan điểm chủ đạo trước đây, không đặt vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở góc độ thúc đẩy phát triển nhanh, hiệu quả, hay phải chiếm lĩnh toàn bộ các lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế. Vai trò động lực phát triển chính trong phát triển kinh tế quốc gia cần được đặt lên vai khu vực kinh tế tư nhân.

Tức là, kinh tế tư nhân đóng vai trò là lực đẩy trực tiếp, tạo sức bật phát triển nhanh cho nền kinh tế, phải trở thành một khu vực năng động, sáng tạo, cạnh tranh có hiệu quả nhất, quyết định đến năng suất lao động và lợi nhuận kinh tế cho toàn nền kinh tế. Nếu hiểu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò động lực quan trọng nhất của kinh tế tư nhân theo cách nói ở trên thì hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với nhau.

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trước hết là vai trò quan trọng bổ trợ, vì trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển, Việt Nam vẫn rất cần sự tiếp sức của các nền kinh tế khác trên thế giới ở các phương diện. Còn vai trò bổ trợ “quan trọng” có nghĩa là Việt Nam đặt vấn đề không chỉ ở khía cạnh vốn tài chính mà quan trọng hơn là hỗ trợ chuyển giao công nghệ, và chuyển giao trí thức.

Chức năng của từng khu vực kinh tế

Đối với khu vực kinh tế nhà nước, vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế được thể hiện qua các chức năng chính: Chức năng xây dựng và thực hiện chiến lược, an ninh kinh tế. Kinh tế nhà nước nắm giữ các lĩnh vực trụ cột như năng lượng, tài chính, ngân hàng, hạ tầng thiết yếu, công nghiệp quốc phòng, dữ liệu quốc gia…

Những lĩnh vực này không chỉ quan trọng về mặt hướng nền kinh tế vào các mục tiêu mà xã hội cần có, mà còn gắn với chủ quyền và năng lực phòng vệ, an ninh, an toàn quốc gia. Khi thị trường gặp biến động hoặc khủng hoảng, đây chính là lực lượng “giữ nhịp”, bảo đảm an toàn hệ thống và năng lực phục hồi quốc gia. Khu vực kinh tế nhà nước còn có chức năng dẫn dắt kiến tạo và hỗ trợ quá trình phát triển của các khu vực kinh tế khác. Theo đó, khu vực kinh tế này cần tiên phong trong các lĩnh vực có tính nền tảng hoặc rủi ro cao mà khu vực tư nhân chưa sẵn sàng tham gia, hoặc tham gia nhưng bị thất bại, cụ thể như công nghệ lõi, năng lượng tái tạo, hạ tầng số, chuyển đổi xanh, trí tuệ nhân tạo…

Bên cạnh đó, kinh tế nhà nước có chức năng điều chỉnh tạo thế cân bằng trong cân đối vĩ mô; lực lượng kinh tế nhà nước, thông qua doanh nghiệp nhà nước, ngân sách nhà nước, quỹ dự trữ quốc gia bảo đảm duy trì sự an toàn của các cân đối vĩ mô liên quan đến tài chính, ngân sách; tiền tệ, tín dụng; thương mại, thanh toán; an ninh năng lượng, lương thực; bảo đảm quốc gia không bị thâm hụt cán cân thương mại và thanh toán kéo dài, tránh các vấn đề về nợ công và dự trữ ngoại hối. Khu vực kinh tế này còn có chức năng là tấm gương sáng, định hình các xu thế mới, hiện đại.

Đối với khu vực kinh tế tư nhân, cần hoàn thiện dựa trên những chức năng chính: Là động lực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế, lợi nhuận và thu ngân sách. Đây có thể nói là chức năng quan trọng nhất để khu vực tư nhân đảm nhận vai trò động lực chính cho phát triển.

Kinh tế tư nhân phải quan tâm đầu tư vào các ý tưởng mới và các cơ sở sản xuất mới, nghiên cứu triển khai áp dụng khoa học công nghệ mới nhằm tận dụng các cơ hội tạo lợi nhuận, giá trị mới được sáng tạo không ngừng, năng suất lao động và chuyển giao kiến thức được thúc đẩy liên tục.

Ở Việt Nam hiện nay, đóng góp vào tăng trưởng và thu ngân sách chưa thật sự cao, vì thế, cần phải ưu tiên xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời nâng đỡ thành phần kinh tế hộ, kinh tế hợp tác, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các lĩnh vực chiến lược của đất nước.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, hơn 90% việc làm ở các nước đang phát triển là do khu vực tư nhân tạo ra. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã chỉ ra rằng, khu vực kinh tế tư nhân tạo ra và duy trì được từ 60% đến 70% việc làm đối với các quốc gia phát triển và đóng vai trò nòng cốt trong việc thay thế khu vực doanh nghiệp nhà nước trong tạo việc làm và giải quyết tình trạng thất nghiệp.

Ở Việt Nam hiện nay, lao động được làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân cũng đã chiếm 85% (số liệu năm 2023). Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân cần đảm đương vai trò là động lực chính cung cấp dịch vụ thiết yếu và xóa đói, giảm nghèo. Vai trò này trở nên quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước cần tìm kiếm các giải pháp thay thế cho nguồn vốn công và tìm kiếm các cách thức hiệu quả hơn để cung cấp dịch vụ.

Đối với khu vực FDI, các chức năng chính để khu vực này đóng vai trò hỗ trợ quan trọng bao gồm: Hỗ trợ mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả tài chính và năng lực cạnh tranh. Các dự án FDI không chỉ tạo ra giá trị kinh tế trước mắt, mà nó giúp mang lại các lợi ích dài hạn, bao gồm cải thiện năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn, tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia. Thu hút FDI cần hướng vào các lĩnh vực trọng điểm như AI, năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học, hóa học để hỗ trợ giúp Việt Nam nắm bắt kịp xu hướng phát triển của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thế giới.

Chức năng quan trọng khác của khu vực FDI là thực hiện tốt chuyển giao công nghệ. Như vậy, bản thân các dự án FDI vào Việt Nam phải là các dự án chứng minh được trình độ công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại theo các tiêu chuẩn quốc tế; các hợp đồng FDI phải thể hiện rõ được lộ trình chuyển giao sang khu vực doanh nghiệp nội địa; các doanh nghiệp FDI thành lập các trung tâm nghiên cứu phát triển (R&D) tại Việt Nam, thực hiện chức năng dẫn dắt hệ sinh thái R&D trên cơ sở hợp tác với các trường đại học, các viện nghiên cứu của Việt Nam.

Ngoài ra, FDI có chức năng kết nối, lan tỏa phát triển đến khu vực nội địa tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; hỗ trợ Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất công nghệ hỗ trợ hàng đầu của khu vực ASEAN, phát triển công nghiệp bán dẫn nói riêng và công nghiệp chế biến chế tạo nói chung, trong đó doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI phát triển song hành.

Theo Báo Nhân dân
BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới