Báo Sơn La điện tử - Tin tức cập nhật trong ngày

Trang chủ

Kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La (26/8/1945 - 26/8/2025)

LTS: Hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La (26/8/1945 - 26/8/2025), Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh biên soạn “Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La (26/8/1945 - 26/8/2015)”, với 3 phần, phản ánh quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân Sơn La trong suốt 80 năm qua. Báo và phát thanh, truyền hình Sơn La trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.

Phần thứ nhất

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)

Sơn La là một tỉnh vùng cao biên giới, nằm ở trung tâm miền rừng núi Tây Bắc Bộ, có vị trí đặc biệt quan trọng về Quốc phòng và An ninh, được coi là "phên dậu" che chở trên hướng Tây Bắc của Tổ quốc. Trải qua các giai đoạn lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân các dân tộc Sơn La đã xây dựng nên truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng anh dũng, kiên cường, quyết không chịu khuất phục trước mọi kẻ thù xâm lược. Ngày 03/12/1887, thực dân Pháp đánh chiếm Sơn La và duy trì bộ máy chính quyền phong kiến địa phương làm tay sai, biến thủ lĩnh ở các châu, mường thành bộ máy cai trị của thực dân Pháp để bóc lột nhân dân. Để duy trì sự cai trị và bóc lột tàn bạo của chúng, năm 1908 thực dân Pháp đã cho xây dựng nhà tù lớn ngay tại tỉnh lỵ nhằm giam cầm, đày ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc. Đến năm 1930, chúng đã cho mở rộng nhà tù Sơn La từ 500 m2 lên 1.500 m2, cuối năm đó chúng bắt đầu đưa những chiến sĩ cộng sản bị bắt lên giam giữ tại đây và đổi tên nhà tù Sơn La thành nhà ngục Sơn La. Từ đây nhà ngục Sơn La trở thành trung tâm giam cầm và đầy ải những chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước ở phía Bắc Việt Nam.

   Tháng 12 năm 1939, các đồng chí đảng viên trong nhà tù Sơn La đã bí mật họp và lập ra chi bộ lâm thời gồm 10 đồng chí, cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Bí thư. Tháng 2 năm 1940, chi bộ lâm thời được chuyển thành chi bộ chính thức và đồng chí Trần Huy Liệu được cử làm bí thư. Sự ra đời của Chi bộ Đảng Nhà ngục Sơn La đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong cuộc đấu tranh của tù chính trị ở Sơn La, đồng thời đánh dấu giai đoạn phát triển mới của phong trào cách mạng ở Sơn La. Dựa vào đường lối của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, căn cứ vào tình hình thực tế ở Sơn La, Ban chi uỷ nhà ngục đã đề ra nhiệm vụ cần kíp trước mắt là: tăng cường tuyên truyền vận động và bằng mọi cách xây dựng được cơ sở cách mạng bên ngoài nhà tù, chuẩn bị tiến tới vũ trang khởi nghĩa khi Sơn La có đủ điều kiện. Với sự tuyên truyền giáo dục, giác ngộ của chi bộ nhà ngục Sơn La, với truyền thống yêu nước của đồng bào các dân tộc, nhân dân Sơn La đã hiểu rõ về cách mạng, về Mặt trận Việt Minh nên sẵn sàng giúp đỡ tù chính trị những việc có ích. Nhiều thanh niên học sinh nhanh chóng tiếp thu lý tưởng cách mạng của Đảng, nhiều người không quản hy sinh quyết tâm đi theo Đảng làm cách mạng để giải phóng quê hương, bản mường.

Đầu năm 1943, chi bộ nhà ngục Sơn La đã bí mật tổ chức cơ sở cách mạng đầu tiên ở Sơn La đó là "Mú nóm chất mương" (thanh niên cứu quốc) gồm hai tổ: Tổ Thanh niên cứu quốc ở tỉnh lỵ gồm có: Chu Văn Thịnh, Tòng Lanh, Nguyễn Phúc, Quàng Đôn do Chu Văn Thịnh phụ trách, tổ thanh niên cứu quốc Mường La gồm có: Cầm Văn Thinh, Lò Văn Giá, Lù Văn Phụi, Lò Văn Pâng (Lô Xuân), do Cầm Văn Thinh phụ trách. Điều lệ tóm tắt của "Mú nóm chất mương" dựa trên cơ sở bản Điều lệ của Hội thanh niên cứu quốc Việt Nam. Nhiệm vụ của thanh niên cứu quốc là tuyên truyền, vận động, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng ở địa phương.

Với sự hoạt động tích cực có hiệu quả của chi bộ đảng ở bên trong cũng như bên ngoài nhà tù đã thực sự biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, nơi toả ánh sáng cách mạng của Đảng tới đồng bào các dân tộc Sơn La nói riêng và nhân dân Tây Bắc nói chung. Từ đây phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc đã có sự lãnh đạo của Đảng và các hình thức đấu tranh của đội thanh niên cứu quốc cũng có sự phát triển mới. Với quá trình hoạt động tích cực, hiệu quả của các Hội Thanh niên cứu quốc ở tỉnh lỵ, Mường La, Mường Chanh … đội tự vệ du kích vũ trang đầu tiên được thành lập ở Mường Chanh do đồng chí Cầm Vĩnh Tri chỉ huy đã khẳng định thêm bước trưởng thành của phong trào cách mạng Mường Chanh cũng như Sơn La, đặt nền móng cho sự ra đời của hình thức đấu tranh vũ trang của quần chúng ở Sơn La thời kỳ tiền khởi nghĩa đó là: Đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, tạo tiền đề vững chắc cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sơn La thắng lợi. Khi phong trào cách mạng ở các Châu phát triển thì ở cơ sở nào cũng thành lập đội tự vệ vũ trang.

Chính vì vậy nên diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở các Châu, Mường của Sơn La rất phong phú, linh hoạt: Từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa đồng loạt, từ nông thôn đến đô thị và ngược lại. Phương thức khởi nghĩa là kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang, bán vũ trang với lực lượng chính trị của quần chúng, trong đó lực lượng vũ trang đóng vai trò quyết định thắng lợi, lực lượng chính trị của quần chúng đóng vai trò hỗ trợ và làm áp lực. Phần lớn ở các châu, mường trong tỉnh đều dùng lực lượng vũ trang (hay tự vệ chiến đấu) đột nhập, bao vây, tấn công chiếm các cơ sở của chính quyền địch, bắt chúng phải đầu hàng. Bên cạnh chủ trương kiên quyết giành bạo lực, ở một số Châu, Mường, các đồng chí lãnh đạo đã kết hợp sách lược thuyết phục, tranh thủ tầng lớp trên và người đứng đầu chính quyền địch đầu hàng, tránh được xô sát và ít đổ máu chính vì vậy khởi nghĩa giành chính quyền đã giành thắng lợi ở Phù Yên, Mường Chanh, Mai Sơn, Mường La, Thuận Châu... Tại tỉnh Lỵ, Nhật đã đầu hàng đồng minh và các cuộc khởi nghĩa ở các châu, mường thắng lợi làm tan rã bộ máy tay sai Nhật, nhưng trên đồi Khau Cả quân Nhật vẫn còn một đại đội đóng ở toà chánh sứ, một đại đội bảo an đóng ở toà giám binh, chúng vẫn làm chủ tỉnh lỵ.

Để giành thắng lợi trọn vẹn, Ban lãnh đạo khởi nghĩa chủ trương tập trung lực lượng vũ trang đông đảo quần chúng làm áp lực để thương thuyết cố tránh xô xát; làm cho chúng hiểu tình thế và chấp nhận điều kiện của ta. Tuy nhiên quân Nhật hết sức ngoan cố, sau nhiều lần gặp gỡ chúng vẫn không chịu nộp toàn bộ vũ khí mà lấy cớ phải mang về Hà Nội nộp cho Đồng Minh, chúng chỉ trao vũ khí của Pháp mà chúng tước được. Đi đôi với thương thuyết, ngày 23/8/1945 quân khởi nghĩa đã tập trung lực lượng vũ trang Mường La bao vây đồi Khau Cả, sẵn sàng nổ súng tiêu diệt nếu kẻ địch chống đối. Tiếp đó quân khởi nghĩa và lực lượng vũ trang từ Mường Chanh theo đường Hua La tiến vào; tổng quân số hợp lại trên 500 người, được trang bị vũ khí mạnh: 190 súng trường, 01 súng máy, 01 súng tiểu liên, còn lại là súng kíp, gươm, dao… chia thành nhiều mũi tiến công, bao vây tất cả các ngả đường và những mục tiêu quan trọng ở tỉnh lỵ.

Trước sức mạnh của quân khởi nghĩa, ngày 25/8/1945, ông Lò Văn Mười - Trưởng Bảo an binh được ta giác ngộ cảm hoá từ trước đã mở cửa trại xin hàng, trao trại bảo an cho ta, giải tán binh lính, nộp 60 súng trường, một số súng tiểu liên và đạn dược. Thấy đơn vị Bảo an đầu hàng, bọn chỉ huy Nhật biết đã đến giờ tận số nên chấp nhận đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí và rút về Hà nội ngay trong đêm hôm đó.

Ngày 26/8/1945, Cuộc mít tinh long trọng được tổ chức tại đồi Khau Cả. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Sơn La được thành lập do ông Cầm Văn Dung làm Chủ tịch, đồng chí Chu Văn Thịnh làm Phó Chủ tịch và một số uỷ viên. Ban cán sự Việt Minh tỉnh do đồng chí Cầm Văn Thịnh làm Chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Tử Du làm Phó Chủ nhiệm và một số uỷ viên ra mắt đồng bào. Đồng chí Chu Văn Thịnh thay mặt Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tuyên bố trước nhân dân các dân tộc: Cuộc khởi nghĩa Tháng Tám ở Sơn La thành công rực rỡ, từ nay xóa bỏ chính quyền quan lại, án nha, phìa, tạo, xoá bỏ chế độ bóc lột "cuông, nhốc" và mọi đặc quyền, đặc lợi của bọn phong kiến … thực hiện quyền dân chủ, tự do cho nhân dân, các dân tộc bình đẳng đoàn kết cùng nhau xây dựng nước Việt Nam độc lập. Ngày 26/8/1945, khởi nghĩa giành chính quyền thành công ở Sơn La, đánh dấu mốc lịch sử trọng đại về sự thống nhất lực lượng, sự hợp nhất của các đội vũ trang ở các Châu, Mường thành lực lượng vũ trang Sơn La làm nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Đây chính là nét đặc thù của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 ở Sơn La.

Với những lý do trên, Đảng uỷ, Bộ CHQS tỉnh Sơn La đã quyết định thành lập hội đồng nghiên cứu sưu tầm lịch sử và đề nghị công nhận ngày truyền thống của lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La. Sau nhiều năm nghiên cứu tiếp thu ý kiến của các bậc lão thành cách mạng và các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh; ngày 10/5/2002, Đảng uỷ Quân sự tỉnh Sơn La đã trình thường trực Tỉnh uỷ Sơn La tại Tờ trình số 5601 - TTr/ĐU về việc đề nghị công nhận ngày truyền thống của lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La. Ngày 01/6/2002, Ban thường vụ tỉnh uỷ Sơn La đã họp, thảo luận và thống nhất ý kiến nhất trí với Tờ trình của Đảng uỷ, Bộ CHQS tỉnh về việc đề nghị công nhận ngày 26/8/1945 là ngày truyền thống của lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La. Theo đề nghị của tỉnh Sơn La, ngày 13/8/2002, Tư lệnh Quân khu 2 đã ra Quyết định số 279/QĐ-BTL công nhận ngày 26/8/1945 là ngày truyền thống của lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La.

Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thương yêu đùm bọc của các dân tộc, sự giúp đỡ tạo điều kiện của các đơn vị và địa phương, lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La đã viết nên trang sử vàng truyền thống "Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng".

1. Bảo vệ chính quyền cách mạng, tích cực chuẩn bị và thực hành kháng chiến chống thực dân Pháp.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công chưa được bao lâu, chính quyền cách mạng vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn gay gắt trên tất cả các mặt: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa, quân và dân các dân tộc Sơn La cùng nhân dân cả nước theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên quyết đứng lên cầm vũ khí, đánh giặc bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được, bảo vệ cuộc sống độc lập, tự do.

Ngày 31/8/1945, quân Tưởng Giới Thạch dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật nhưng thực chất muốn xâm chiếm nước ta. Bọn Việt gian phản động ở địa phương ngóc đầu dậy câu kết với quân Tưởng hòng bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập ở Sơn La. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang cùng nhân dân các dân tộc Sơn La đã đấu tranh, ngăn chặn, dùng áp lực quần chúng khôn khéo chặn đứng và bóp chết mọi âm mưu hành động phá hoại của địch; buộc chúng phải rút hết quân ra khỏi địa bàn tỉnh, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Tháng 10 năm 1945 các đơn vị thuộc Vệ quốc đoàn như tiểu đoàn 86, 71 và 90 được trên điều động tăng cường cho chiến trường Sơn La - Tây Bắc làm nòng cốt cùng lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La đánh giặc giữ bản, giữ mường. Ngày 22/12/1945 tại xã Hát Lót huyện Mai Sơn một Tiểu đoàn từ Chiến khu 2 lên Sơn La cùng chi đội 3 tổ chức thành Trung đoàn 148 mang tên Trung đoàn Sơn La với quân số 600 người có 3 tiểu đoàn do đồng chí Nam Hải làm Trung đoàn trưởng. Các tiểu đoàn của Trung đoàn 148 đã phối hợp với bộ đội Tây Tiến và lực lượng dân quân du kích địa phương chiến đấu dũng cảm ngăn chặn có hiệu quả các cuộc tiến quân của Pháp từ Lai Châu xuống và từ Lào sang địa bàn tỉnh Sơn La, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến của cả nước.

Trước tình hình của mặt trận Tây Bắc, tháng 6 năm 1946, Trung ương cử đồng chí Trần Quyết lên thay đồng chí Dương Văn Ty và trực tiếp làm Bí thư Tỉnh uỷ. Lúc này, Sơn La chưa có tổ chức đảng, nhưng trên địa bàn Sơn La các đảng viên sinh hoạt ghép với tổ chức đảng của Trung đoàn uỷ Trung đoàn 148. Tháng 10 năm 1946, tổ chức kết nạp thêm 04 đảng viên nữa, sau tách ra thành chi bộ độc lập với tổng số 08 đảng viên. Đây là chi bộ đầu tiên của đảng bộ, là hạt nhân lãnh đạo và là tiền thân của Đảng bộ tỉnh Sơn La sau này.

Ngày 2/8/1947, trung đội vũ trang tuyên truyền đầu tiên của tỉnh được thành lập gồm 21 chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Bá Toản làm trung đội trưởng, đồng chí Trần Quyết - Bí thư Tỉnh uỷ làm Chính trị viên. Ngay chiều hôm đó đã chiến đấu với địch ở núi Pu Tên, đội đã tỏ rõ bản lĩnh và khẳng định vị trí của mình, tạo khí thế cho phong trào đấu tranh của quần chúng. Sự ra đời của đội vũ trang tuyên truyền đầu tiên đã đánh dấu một bước tiến mới của lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh  Sơn La, khẳng định sự quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng bộ tỉnh Sơn La. Đây là kết quả tất yếu của đường lối chiến tranh nhân dân và phong trào vũ trang toàn dân đánh giặc.

2. Xây dựng, mở rộng căn cứ hậu phương kháng chiến, sát cánh chiến đấu với nhân dân Lào

Sau thất bại ở Việt Bắc thu đông 1947, thực dân Pháp buộc phải thay đổi chiến lược từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang chiến tranh tổng lực. Đến năm 1948 chiến trường Sơn La đã bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ mở rộng khu căn cứ hậu phương kháng chiến.

Ngày 18/02/1948, Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam ra chỉ thị thành lập Ban xung phong Tây Bắc với mục đích mở rộng con đường tiến lên Điện Biên Phủ, mở mặt trận trong lòng địch ở Lai Châu.

Ngày 29/02/1948, đội xung phong "Trung Dũng" được thành lập do đồng chí Lê Thanh - Trung đoàn phó Trung đoàn Sơn La làm đội trưởng, đồng chí Cầm Vĩnh Tri, Xích Vân làm đội phó. Đội đã cùng với dân quân du kích tổ chức một số trận đánh địch ở Tô Buông, Mường Sang, Chiềng Tương ... gây dựng cơ sở và lực lượng vũ trang quần chúng rộng khắp trên địa bàn hoạt động của mình ở Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Sông Mã.

Đội xung phong "Quyết Thắng" - tiền thân của trung đoàn Lao Hà thành lập ngày 25/02/1948 do đồng chí Việt Bằng, Việt Cường phụ trách, gây dựng cơ sở vùng Cam Đường, Lào Cai.

Đội xung phong "Quyết Tiến" nòng cốt của trung đoàn 115 Yên Bái sau này, thành lập ngày 15/3/1948 do đồng chí Hồng Quân, Bạch Luân chỉ huy hoạt động ở vùng Nghĩa Lộ - Than Uyên, Văn Bàn - Ít Ong.

Nhiệm vụ của ba đội xung phong hoạt động ở vùng Tây Bắc là mở rộng khu tự do, nối liền ba khu thành một phòng tuyến chiến tranh nhân dân trong lòng địch.

Tháng 3 năm 1948, Uỷ ban kháng chiến hành chính liên tỉnh Sơn La - Lai Châu và Ủy ban kháng chiến hành chính liên huyện Mộc - Yên, Mai - Thuận ra đời. Tỉnh đội, Ty Công an, Ty thông tin và Ty bình dân học vụ cũng được thành lập. Tỉnh đội Sơn La do đồng chí Nguyễn Bá Toản làm Tỉnh đội trưởng trực tiếp điều hành cuộc kháng chiến của nhân dân các dân tộc ở địa phương. Đây là bước phát triển có ý nghĩa chính trị to lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân các dân tộc Sơn La trong năm 1948 - 1949 và những năm sau này.

Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La tiếp tục được củng cố và không ngừng phát triển, các khu du kích và căn cứ kháng chiến được mở rộng. Để tăng cường thêm sức mạnh chiến đấu cho Sơn La, Quân khu đã lần lượt bổ sung các đại đội: 860 (tháng 01/1948), 870 (tháng 9/1948), 818 (tháng 10/1948) và đại đội 834.

Để tăng cường giúp đỡ cách mạng Lào anh em và mở rộng khu tự do của ta dọc biên giới Việt - Lào. Ngày 20/5/1948, Bộ tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam quyết định thành lập Ban xung phong Lào - Bắc, với nhiệm vụ là: Xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng Bắc Lào, trực tiếp liên lạc với Uỷ ban kháng chiến và tỉnh đảng bộ Sơn La với Ban xung phong "Trung Dũng" của Sơn La để phối hợp hành động. Địa bàn đứng chân của Ban xung phong  Lào - Bắc là Sơn La, lấy Mộc Châu - Sơn La làm bàn đạp tiến vào các vị trí Sốp San - Sốm Pín - Xiềng Khọ - Mường Hét đến Phong Sa Lỳ. Ban chỉ huy được chỉ định gồm các đồng chí Cay - Xỏn Phôm - Vi - Hản là trưởng ban, đồng chí Thảo Hạnh là phó ban, đồng chí Đông Tùng là chính trị viên. Những chiến sĩ ưu tú con em các dân tộc Sơn La đã sống, chiến đấu hết mình, đồng cam cộng khổ cùng với nhân dân các bộ tộc Lào, tạo lập được chỗ đứng chân hoạt động, xây dựng cơ sở chính trị, căn cứ kháng chiến, phát triển lực lượng góp phần vào việc thành lập Quân đội nhân Lào anh em sau này.

Năm 1949 tình hình trong nước có nhiều biến đổi quan trọng có lợi cho cuộc kháng chiến. Ở Sơn La các đơn vị chủ lực phối hợp cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh nhiều trận tiêu hao sinh lực địch ở các vị trí Mai Sơn, Quỳnh Nhai.

Năm 1949 Bộ đội địa phương và du kích Sơn La vừa phối hợp với bộ đội chủ lực, vừa độc lập chiến đấu 320 trận diệt và làm bị thương 379 tên địch trong đó có 63 tên Pháp. Đập tan tham vọng tấn công và tiêu diệt khu căn cứ chiến đấu của chúng, làm phá sản chính sách "Bình định" và chiến thuật "Vết dầu loang" của thực dân Pháp.

Ngày 03/02/1950, Tỉnh uỷ Sơn La đã họp bàn quyết định mở chiến dịch tổng phá tề trong toàn tỉnh và chọn lấy hai xã Quang Huy và Tân Phong (Phù Yên) làm nơi chỉ đạo. Chiến dịch phá tề giành thắng lợi, nhiều tên tề nguỵ gian ác bị trừng trị, cơ sở của địch bị phá vỡ, tạo điều kiện cho phong trào kháng chiến của nhân dân phát triển.

3. Đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, mở rộng khu căn cứ kháng chiến, phối hợp với Bộ đội chủ lực giải phóng Tây Bắc, giải phóng Sơn La.

Tháng 3 năm 1951, Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La phối hợp với bộ đội chủ lực tổ chức chống địch tràn vào khu căn cứ Mộc Hạ nơi diễn ra Đại hội Đảng bộ Sơn La lần thứ nhất. Với hơn 30 trận đánh lớn nhỏ đã đập tan hơn 1.000 quân càn quét, tiêu diệt và làm bị thương gần 100 tên trong đó có 10 tên Pháp. Đồng thời bảo toàn được lực lượng của ta và bảo vệ được cơ quan đầu não của Tỉnh, giữ vững khu vực tự do.

Đầu tháng 9 năm 1952, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Chiến dịch bắt đầu từ ngày 14/10/1952 đến 10/12/1952 kết thúc thắng lợi. Chiến dịch Tây Bắc đã giải phóng Sơn La (22/11/1952) và giải phóng phần lớn đất đai Tây Bắc. Trong chiến dịch Tây Bắc, lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La cùng các đơn vị tham gia chiến đấu tiêu diệt 1.005 tên địch, bắt sống 5.024 tên, diệt gọn 04 tiểu đoàn và 28 đại đội, đánh thiệt hại nhiều tiểu đoàn cơ động khác của địch. Quân và dân Sơn La đã đóng góp cho chiến dịch 1.421.220 ngày công, cung cấp 693.434 kg gạo, 8.000 kg ngô, 48.321 kg thịt các loại, vận chuyển 135 tấn gạo từ Phú Thọ lên các kho tiền phương.

Mùa xuân năm 1953, Trung ương Đảng, Chính Phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Ít Xa La thống nhất mở chiến dịch Thượng Lào. Lưc lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Sơn La tuy mới được giải phóng, cuộc sống còn nhiều khó khăn, gian khổ, thiếu thốn song với tình "đoàn kết gắn bó keo sơn, thuỷ chung, trong sáng", đồng bào các dân tộc Sơn La tiếp tục góp sức người, sức của cùng nhân dân cả nước chi viện cho chiến dịch Thượng Lào. Trong chiến dịch Thượng Lào, quân và dân Sơn La đã cùng quân dân Tây Bắc đóng góp 6.300 tấn gạo, 200 tấn muối, 2.900 tấn thịt, huy động 62.500 lượt dân công với 2.535 ngày công.

Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 28/9/1953, Khu uỷ Tây Bắc ra Chỉ thị đặc biệt cho quân và dân Tây Bắc tiến hành quét sạch bọn biệt kích, thám báo, tiêu diệt thổ phỉ, nhằm đập tan kế hoạch dùng phỉ để chống phá ta của thực dân Pháp. Tháng 10 năm 1953. Ban cán sự tỉnh Sơn La đã họp tại Thuận Châu, đồng chí Trần Quyết, đại diện khu uỷ, truyền đạt nội dung cơ bản của Chỉ thị và tư tưởng chỉ đạo của Khu. Ngày 03/10/1953, Ban cán sự đã thảo luận, xây dựng kế hoạch và phương án mở chiến dịch tiễu phỉ.

Từ ngày 01 đến 10/11/1953, ta bao vây tiến công cụm phỉ ở huyện lỵ Thuận Châu diệt và bắt sống 1.800 tên. Tiểu đoàn 990 đã truy kích đến tận Mường Khiêng, Mường Sại gọi hàng thêm 592 tên, nâng tổng số phỉ bị tiêu diệt và bắt sống lên 2.400 tên. Đến trung tuần tháng 11 năm 1953 ta đã giải phóng gần 02 vạn dân trong vùng phỉ chiếm đóng. Thu hàng nghìn súng các loại, phóng thích 1.600 thanh niên bị phỉ cưỡng ép, lừa phỉnh trở về đoàn tụ với gia đình.

4. Đóng góp tích cực cho chiến dịch Điện Biên Phủ

Sơn La là một tỉnh có vị trí chiến lược quân sự quan trọng ở Tây Bắc. Thực dân Pháp đã nhằm Sơn La - Tây Bắc để lập "Xứ Thái tự trị". Trong chiến dịch lịch sử này, Sơn La là hậu phương lớn của tiền tuyến; gánh vác nhiệm vụ quan trọng, góp phần quyết định sự thành bại của chiến dịch. Đảng bộ và nhân dân Sơn La đã dốc lòng, dốc sức huy động nhân tài vật lực cho tiền tuyến, vừa tập trung lực lượng tiêu diệt sinh lực địch vừa thực hiện đầy đủ, có kết quả mọi mặt công tác, xứng đáng là hậu phương trực tiếp của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Tháng 6 năm 1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các địa phương đẩy mạnh công tác xây dựng cầu, đường giao thông vận tải chi viện cho tiền tuyến. Tỉnh Sơn La được giao nhiệm vụ mở tuyến đường số 13 nối liền từ phía nam tỉnh Yên Bái đến phía nam tỉnh Sơn La dài hơn 100 km. Từ khi khởi công đến khi sử dụng để vận chuyển, quân và dân trong tỉnh đã huy động hơn 02 triệu ngày công, trong đó lực lượng thường xuyên trên mặt đường khoảng 02 vạn người. Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", không quản ngại khó khăn, gian khổ, bất chấp mọi sự đe doạ của bom đạn và uy hiếp của máy bay địch, quân và dân Sơn La quyết tâm làm đúng thời hạn và bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật. Con đường giao thông nối Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc đã được thông suốt. Cùng với đường số 13 là đường số 41 nối liền với Liên khu 3, Liên khu 4 lên Tây Bắc cũng được sửa chữa, tu bổ với tổng chiều dài khoảng 430 km. Cùng với đường bộ, các con thuyền, chiếc phà và dòng sông ra trận. Bến phà Tạ Khoa là nơi bị máy bay địch oanh tạc đánh phá liên tục ngày đêm, có lần địch đánh phá 07 ngày liền, nhưng với tinh thần tất cả vì thắng lợi cho chiến dịch, cán bộ, thuỷ thủ và dân công bến phà Tạ Khoa luôn gương mẫu, không quản nguy hiểm, hy sinh, không để cho phà bị tắc.

Sau khi Bộ Chính trị phê chuẩn kế hoạch mở chiến dịch Điện Biên Phủ, Hội đồng cung cấp mặt trận được thành lập, Sơn La được giao nhiệm vụ là nơi trung chuyển. Tuy nhiên Sơn La cũng là nơi địch tập trung đánh phá ác liệt, các đoạn đường giao thông trọng điểm như ngã ba Cò nòi, bến phà Tạ Khoa, từ Sơn La đi Tuần giáo bị không quân địch đánh phá liên tục 24/24 giờ. Đặc biệt ngã ba Cò Nòi, nơi địch nghi là tổng kho trung chuyển của ta, đã phải thường xuyên chịu tới chục tấn bom đạn trong một ngày.

Mặc dù bị địch ném bom đánh phá liên tục, song đồng bào Sơn La không hề nao núng. Hàng vạn thanh niên, nam nữ, quân và dân các dân tộc trong tỉnh đã không quản ngại hy sinh, gian khổ để phục vụ chiến dịch. Kết quả trong chiến dịch Điện Biên Phủ, tỉnh Sơn La đã huy động 21.687 dân công và 2.434.759 ngày công đóng góp cho chiến dịch, vừa làm đường, sửa chữa đường, vừa bảo đảm vận chuyển. Về phương tiện vận chuyển có 83 thuyền và ca nô, 872 ngựa thồ. Sơn La cùng với nhân dân các tỉnh bạn vận chuyển được 4.450.000 tấn hàng hoá ra mặt trận. Về tân binh, tỉnh đã tuyển được 1.043 người, lực lượng dân quân du kích 1.151 người vừa chiến đấu, bảo vệ và phục vụ chiến đấu. Đồng bào các dân tộc Sơn La đã gửi ra mặt trận Điện Biên Phủ 3.607 tấn gạo (vượt chỉ tiêu 52 tấn), trên 144 tấn thịt các loại (vượt chỉ tiêu 84 tấn), mỡ gần 3 tấn (vượt 2,5 tấn), rau xanh các loại 140 tấn. Trong chiến trường Điện Biên Phủ, tiểu đoàn 91 (Trung đoàn Sơn La) đã trực tiếp tham gia chiến đấu và lập công xuất sắc ...

Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La mãi mãi tự hào về những đóng góp to lớn của mình cùng với các lực lượng chiến đấu giải phóng quê hương, vừa góp sức cùng quân và dân cả nước giành thắng lợi trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đưa miền Bắc vững bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Phần thứ hai

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ  CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

1. Quân và dân Sơn La trong thời kỳ khôi phục, phát triển kinh tế-xã hội, củng cố Quốc phòng - An ninh (1954 - 1964)

Sau hiệp định Giơ ne vơ được ký kết (tháng 7 năm 1954), nhân dân miền Bắc nói chung, nhân dân Sơn La nói riêng, phấn khởi tin tưởng bước vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi  phục, cải tạo nền kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ đặt ra hết sức nặng nề, mặt khác thực dân Pháp rắp tâm trở lại hoạt động chống phá vùng mới giải phóng, chúng đã thả 620 tên biệt kích xuống địa bàn các tỉnh Hà Giang, Lai Châu, Sơn La. Đồng thời chúng cài cắm nhiều tay sai, gián điệp, đặc vụ; thả biệt kích xuống vùng hẻo lánh, vùng cao biên giới, xây dựng lực lượng móc nối với tay sai còn lại, nhen nhóm các tổ chức phản động gây bạo loạn, lật đổ chính quyền cách mạng, đến tháng 7 năm 1954 lực lượng Phỉ trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc lên tới 4.000 tên.

Tháng 8 năm 1954, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La họp xác định nhiệm vụ hàng đầu của tỉnh là: Tập trung xây dựng cơ sở chính trị, củng cố chính quyền các cấp … vận động nhân dân đấu tranh, truy quét, tiêu diệt bọn biệt kích, gián điệp, thổ phỉ, làm thất bại kế hoạch "hậu chiến" của địch.

Ngày 28/9/1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết thành lập Khu tự trị Thái  - Mèo. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính Phủ, Khu uỷ đã tổ chức học tập rộng rãi trong toàn Đảng bộ, lực lượng vũ trang và toàn dân về chính sách đoàn kết dân tộc. Ngày 07/5/1955, nhân kỷ niệm 01 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, lễ ra mắt Hội đồng nhân dân Khu tự trị Thái - Mèo được tổ chức. Ông Sa Văn Minh được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu và thay mặt Hội đồng nhân dân Khu công bố những mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội của Khu tự trị. Toàn khu có 18 châu trong đó Sơn La có 07 châu; Lai Châu có 08 châu và 03 huyện (Phong Thổ của Lào Cai và 2 huyện Văn Chấn, Than Uyên của tỉnh Yên Bái).

Tháng 5 năm 1955, Tỉnh đội Sơn La giải thể, Quân khu Tây Bắc chỉ đạo trực tiếp xuống các châu đội (huyện đội) về mọi mặt quân sự. Thời kỳ này, đồng chí Lương Nghĩa - nguyên Tỉnh đội trưởng từ năm 1952 được giao làm trưởng ban quân sự phụ trách các châu Sơn La cũ.

Tháng 02 năm 1957, vụ xưng vua đầu tiên ở Sơn La xảy ra ở Co Tòng, Long Hẹ (Thuận Châu). Quân khu Tây Bắc đã phái một đội công tác do đồng chí Cầm Dịn phụ trách xuống địa bàn nhanh chóng giải quyết ổn định tình hình. Cùng thời gian đó, ở Huổi Xâm, Huổi Khe vùng cao Mường Lạn có hiện tượng xưng vua và lôi kéo dân di cư sang Lào, song lực lượng bộ đội biên phòng của Quân khu tiến hành vận động, bọn phản động ngoan cố chống lại ta đã nổ súng tiêu diệt 01 tên và phá tan âm mưu nổi loạn của địch. Tại Sông Mã, từ cuối năm 1956 bọn phản động gây nên vụ "xưng vua" trong đồng bào Mông và đồng bào Khơ Mú ở các xã Nậm Ty, Mường Cai, Mường Hung, Chiềng Khương. Ngày 5/6/1957, tại xã Kiến Thiết (Mộc Châu), chúng dựng lên vụ "xưng vua, đón vua" để mê hoặc lòng dân … tất cả các hành động phá hoại trên đề nằm trong kế hoạch hoạt động của lực lượng phỉ Vàng Pao dưới sự chỉ đạo của Phòng nhì Pháp và CIA Mỹ để thực hiện âm mưu chống phá cách mạng hai nước Việt Nam và Lào. Nhận định đúng âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù, ngày 23/5/1957, Khu uỷ triệu tập hội nghị cán bộ mở rộng nhằm đánh giá tình hình và ra nghị quyết về công tác củng cố vùng cao biên giới. Do triển khai thực hiện nghị quyết trên đạt kết quả nên đến cuối 1957, về cơ bản đã giải quyết việc "xưng vua, nổi phỉ" ở các xã vùng cao, tình hình chính trị ổn định, âm mưu gây bạo loạn của địch bị thất bại.

* Xây dựng lực lượng vũ trang, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội; xây dựng quan hệ sản xuất mới (1958 - 1962)

Thực hiện Sắc lệnh số 109/SL - LK ngày 20/12/1958 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành chế độ phục vụ của sĩ quan, tiền lương và khen thưởng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cùng với các tỉnh Vĩnh Phúc và Nghệ An, Sơn La được Bộ Quốc phòng chọn làm điểm về thực hiện luật nghĩa vụ quân sự ở 04 châu là Phù Yên, Mường La, Mai Sơn, Thuận Châu, đợt thí điểm thành công đã giúp Sơn La nhiều kinh nghiệm quý trong tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương. Ngày 05/5/1959, Ban chấp hành Đảng bộ khu ra Nghị quyết "Về lãnh đạo, củng cố dân quân, tự vệ, xây dựng lực lượng hậu bị".

Từ năm 1958 - 1960, nhân các dân tộc Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng đã đóng góp nhiều công sức cùng bộ đội xây dựng hệ thống phòng thủ, các công trình quốc phòng, mặt khác đã chú trọng việc chuyển quân nhân về nông thôn để tăng cường cho lực lượng địa phương xây dựng cơ sở chính trị và đẩy mạnh sản xuất, xây dựng kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất mới.

Quán triệt Chỉ thị 15 của Trung ương Đảng, cùng với quân dân Tây Bắc, các địa phương của Sơn La đã động viên nhiều con em lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. theo tiếng gọi của Đảng ngay trong những năm đầu này Sơn La có hàng nghìn thanh niên tình nguyện đi bộ đội vào miền Nam chiến đấu.

Ngày 10/4/1959, theo đề nghị của Khu uỷ Tây Bắc và Ban chỉ huy công an nhân dân vũ trang Trung ương, Bộ Công an quyết định thành lập Khu Công an nhân dân vũ trang Tây Bắc. Trong giai đoạn này, tình hình biên giới Khu Tây Bắc rất phức tạp, một số đơn vị của quân phản động Lào có những hành động lấn chiếm. Các đơn vị Biên phòng Sơn La vừa được thành lập đã phải bước vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của địch. Góp phần vào thành công trong bảo vệ biên giới của toàn Quân khu, các châu của Sơn La đã làm tốt công tác phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; phản ánh rõ quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng ta.

Những năm 1960, khi cách mạng Lào ở tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" đã có sự chi viện kịp thời của đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Sơn La. Đầu năm 1961, Khu uỷ Tây Bắc giao nhiệm vụ cho các đơn vị biên phòng thuộc Sơn La phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Lào tổ chức nhiều trận chiến đấu chống bọn phái Hữu lấn chiếm vùng giải phóng của bạn, đấu tranh chống bọn biệt kích Mỹ Diệm và bọn phản động lưu vong trong "Liên bang Thái" mượn đất Lào để hoạt động chống phá cách mạng nước ta.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khoá II) xác định nhiệm vụ chiến lược của Quân đội là phải kết hợp củng cố quốc phòng gắn với xây dựng kinh tế và bảo vệ thành quả cách mạng, ngày 20/3/1958 Bộ tổng tham mưu triệu tập Hội nghị toàn quốc quán triệt nghị quyết về điều chỉnh kế hoạch xây dựng Quân đội. Theo kế hoạch điều chỉnh lực lượng, sư đoàn 316 sẽ rút gọn lại thành một lữ đoàn, còn một bộ phận chuyển ra lao động sản xuất. Trên địa bàn Sơn La, các đơn vị thuộc sư đoàn 335 và 316 chuyển thành các đơn vị xây dựng kinh tế, lập các nông trường quân đội Mộc Châu và Tô Hiệu để khai thác tiềm năng của hai cao nguyên Nà Sản và Mộc Châu.

Ngày 07/5/1959, kỷ niệm 05 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và 4 năm thành lập Khu tự trị Thái - Mèo, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu Trung ương Đảng và Chính Phủ lên thăm Tây Bắc, Cùng đi với Bác Hồ có đồng chí đại tướng Võ Nguyên Giáp - Phó Thủ tướng Chính Phủ, đồng chí Tố Hữu - Uỷ viên Trung ương Đảng và Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Bộ trưởng Bộ Y tế. Nhân dân các dân tộc Sơn La vinh dự được thay mặt nhân dân các dân tộc trong Khu đón Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại kỳ đài Thuận Châu - thủ phủ Khu Tây Bắc một cuộc mít tinh lớn đã được tổ chức, đúng 06 giờ 00 ngày 07/5/1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí cùng đi tiến vào lễ đài giữa tiếng hoan hô vang dậy núi rừng của gần một vạn đồng bào, cán bộ, bộ đội. Bác Hồ đã thay mặt Đảng, Chính Phủ phát biểu động viên, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên và đoàn viên, thanh niên trong Khu và trao tặng đồng bào các dân tộc Khu tự trị Thái - Mèo Huân chương Lao động hạng Nhất, Người còn trao tặng lá cờ của đồng bào thủ đô tặng các dân tộc anh em Khu tự trị Thái - Mèo có thêu dòng chữ "Đoàn kết, thi đua, thắng lợi". Ngày 08/5/1959, Bác Hồ đến thăm Mộc Châu, nói chuyện với đông đảo đại biểu đảng bộ, quân và dân các dân tộc Mộc Châu, Bác Hồ trực tiếp thăm và căn dặn cán bộ, chiến sĩ công nhân nông trường Mộc Châu.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu, kế hoạch 05 năm lần thứ nhất (1961-1965) mà nghị quyết Đại hội III của Đảng đề ra, Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ Khu tự trị Thái - Mèo họp tại Thuận Châu từ ngày 25/02 đến 06/3/1961, đã kiểm điểm đánh giá tình hình kinh tế xã hội và công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong toàn Khu và đề ra mục tiêu phương hướng kế hoạch 05 năm lần thứ nhất, trọng tâm là 02 năm (1961 - 1962).

Ngày 27/10/1962, Quốc hội khoá II, kỳ họp thứ V ra nghị quyết về việc đổi tên Khu tự trị Thái - Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc và tái lập lại các tỉnh Sơn La, Lai Châu và tỉnh mới Nghĩa Lộ thuộc khu Tây Bắc. Quyết định trên đáp ứng nguyện vọng của nhân dân các dân tộc và thực tiễn phong trào cách mạng ở Sơn La. Các lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương tiếp tục cùng nhân dân trong tỉnh thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà nước 05 năm lần thứ nhất (1961-1965). 

2. Đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng hậu phương, tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và làm nghĩa vụ quốc tế.

Trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, ngày 24/12/1962 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra quyết định thành lập lại tỉnh Sơn La, tỉnh Lai Châu và thành lập tỉnh mới Nghĩa Lộ, cấp Châu đổi thành cấp Huyện. Về tổ chức đảng, Ban chấp hành Trung ương ra Quyết định số 683 - QĐ/TW ngày 24/12/1962 thành lập Đảng bộ tỉnh Sơn La và các đảng bộ trực thuộc tỉnh, đồng thời chỉ định Ban chấp hành lâm thời của đảng bộ tỉnh gồm 13 đồng chí, do đồng chí Hoàng Nó làm Bí thư Tỉnh uỷ. Ngày 24/12/1962, Thủ tướng Chính Phủ ra quyết định số 213/QĐ - CP về việc thành lập Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Sơn La gồm 13 đồng chí, do đồng chí Cầm Liên làm chủ tịch.

Cùng thời gian này, Ban chỉ huy quân sự Tỉnh đội Sơn La được thành lập, đồng chí Phạm Duy Tiến được bổ nhiệm làm tỉnh đội trưởng, đồng chí Lù Thanh Sơn làm Chính trị viên, đồng chí Lò Văn Sôn được chỉ định là Uỷ viên Thường vụ tỉnh uỷ Sơn La, phụ trách khối nội chính. Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tỉnh đội tỉnh Sơn La là cơ quan quản lý nhà nước về mặt quân sự, chịu trách nhiệm trước Đảng, chính quyền về hoạt động quân sự, tham mưu cho Đảng bộ tỉnh về chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương theo đường lối quân sự của Đảng …

Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ II họp từ ngày 07 đến ngày 14/10/1963 xác định rõ nhiệm vụ cụ thể: "Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với các nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang cả về tư tưởng và tổ chức … "

Trong giai đoạn cách mạng mới, Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La có nhiệm vụ:

- Xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân dân gồm 03 thứ quân vững mạnh toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động, vừa chiến đấu, vừa xây dựng kết hợp học tập chính trị, huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật với tác chiến.

- Cùng lực lượng công an vũ trang, công an nhân dân giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ biên giới, bảo vệ vững chắc địa bàn tỉnh.

- Góp phần cùng các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân các dân tộc ra sức xây dựng Sơn La thành hậu phương chiến lược vững mạnh toàn diện, tích cực chi viện cho cách mạng Miền Nam.

- Làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào, trực tiếp là tỉnh Hủa Phăn.

Sau những năm triệt phỉ, dẹp xưng vua ở một số địa bàn đạt kết quả tốt. nhưng những nhân tố gây mất ổn định chính trị vẫn tồn tại ở một số nơi, đế quốc Mỹ liên tục thả biệt kích, gián điệp và truyền đơn tâm lý xuống một số nơi phía ngoại biên thuộc Lào. Căn cứ phỉ ở Pha Thí được mở rộng áp sát biên giới để điều tra tình báo và móc nối gây cơ sở phản động nội địa ở Sơn La. Song lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La đã phối hợp với công an vũ trang căn bản giữ vững được an ninh trật tự ở khu vực biên giới, đối phó một cách tích cực chủ động và có hiệu quả với mọi hoạt động chống phá của địch, giải quyết nhanh gọn bảo đảm bí mật các vụ gián điệp biệt kích như chuyên án K26, trong nhiều năm đã thu được hiệu quả tốt. Tính đến năm 1968, Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La đã diệt và bắt gọn trên 60 vụ bao gồm 86 tên biệt kích thám báo cùng toàn bộ vũ khí trang bị, đập tan âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ giữ vững ổn định chính trị địa phương. Ngoài ra còn đánh phỉ xâm nhập biên giới vào Huổi Ca, Huổi Niểng, tiễu phỉ ở Kha Mun - Ca Đưa, Pha Thí (Lào) giải phóng một giải biên cương đất Lào dọc theo Sông Mã và Sông Nậm Ét.

Theo yêu cầu giúp đỡ của các bạn Lào, tiểu đoàn 428 của tỉnh (thành lập ngày 21/8/1965) được tăng cường thêm một đại đội sang chi viện cho bạn đã chiến đấu anh dũng và đánh thắng giòn giã, cùng với các đơn vị bạn giải phóng Mường Son, Pha Bông vây đánh địch ở Tòng Cọ, đẩy địch lùi xa biên giới. Ngoài ra, lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La và dân công còn chi viện tích cực cho các chiến dịch Luông Nậm Thà (năm 1962) chiến dịch Nậm Bạc (năm 1968) mặt trận cánh đồng Chum - Xiêng khoảng (năm 1972), Sảm Thông, Long Chẹng ... Sau hiệp định Viêng Chăn (02/1973) vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ giúp bạn vận chuyển hàng chiến lược và tiến công địch cho đến khi cách mạng Lào giành thắng lợi hoàn toàn. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước quân và dân Sơn La đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế với nước bạn Lào anh em. Dấu chân của các chiến sĩ tình nguyện con em các dân tộc Sơn La đã in đậm khắp các bản mường của các tỉnh Bắc Lào. Tình đoàn kết liên minh chiến đấu Sơn La - Hủa Phăn là một biểu hiện cao đẹp của tình đoàn kết quốc tế cao cả. Đặc biệt là quan hệ Việt - Lào.

Song song với nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Lào anh em, lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La cùng với Bộ đội Biên phòng và Công an nhân dân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn tỉnh, đập tan các âm mưu xưng vua, nổi phỉ, gây bạo loạn của địch. Tiêu diệt và bắt sống nhiều toán biệt kích, thám báo của chúng. Trong 04 năm (1961 - 1964), lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La đã luôn làm nòng cốt trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, cùng nhân dân bắt 08 toán gián điệp, biệt kích gồm 44 tên, thu nhiều vũ khí và phương tiện của địch, góp phần làm thất bại âm mưu tung gián điệp, biệt kích của Mỹ và tay sai xuống hậu phương miền Bắc.

Từ tháng 5/1965 đến cuối 1972, Sơn La đã chuyển hướng chiến lược từ thời bình sang thời chiến, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp trong toàn tỉnh, cùng quân dân cả nước đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với Miền Bắc.

Được sự đồng ý của Bộ tư lệnh Quân khu, Tỉnh uỷ và Uỷ ban hành chính tỉnh Sơn La quyết định thành lập đại đội pháo cao xạ 37mm và các trung đội dân quân tự vệ có trang bị đại liên, trung liên. Lực lượng phòng không ba thứ quân của Sơn La đã quyết tâm đánh thắng ngay từ trận đầu khi giặc Mỹ leo thang bắn phá vào địa bàn tỉnh Sơn La.

Vào hồi 11 giờ 00 ngày 12/6/1965, Đế quốc Mỹ cho 02 máy bay ném bom xuống Mường Sang (Mộc Châu) mở đầu giai đoạn địch dùng máy bay đánh phá địa bàn tỉnh Sơn La. Sáng 14/6/1965 sau khi nhận được thông báo của cơ quan tác chiến Bộ Quốc phòng: máy bay địch chuẩn bị tấn công vào địa bàn Sơn La, tất cả các trận địa phòng không trong tỉnh đều báo động và triển khai vào vị trí chiến đấu. Đúng 12 giờ trưa cùng ngày, 12 máy bay F-105 của Mỹ từ các căn cứ Thái Lan chia làm 02 tốp, hùng hổ lao đến ném bom đánh phá xuống khu vực Phiêng Luông, ngã ba Xồm Lồm (Mộc Châu) lập tức bị các trận địa phòng không của ta trên các khu vực đánh trả quyết liệt, bắn rơi 02 máy bay F-105. Số máy bay còn lại vội vàng trút bom bừa bãi tháo chay. Chiến thắng này có ý nghĩa lớn lao, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quân, dân trong toàn tỉnh thi đua lập công chống Mỹ cứu nước, bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Tiếp theo chiến thắng ở Mộc Châu, một tuần sau đó, ngày 20/6/1965 quân và dân thị xã Sơn La đã lập công xuất sắc, chỉ trong vòng không đầy 02 phút đã bắn rơi tại chỗ 03 máy bay F-105D của địch. Đây là trận đánh phối hợp hiệp đồng chặt chẽ và đạt hiệu suất chiến đấu rất cao giữa các lực lượng pháo phòng không của bộ đội chủ lực và lực lực lượng dân quân bản Cọ, tự vệ Bưu điện, tự vệ Dược phẩm. Cùng ngày hôm đó, chỉ 05 giờ sau, quân và dân Sơn La lại bắn rơi thêm 02 máy bay Mỹ khác ở khu vực Nà Sản. Chúc mừng thành tích xuất sắc đó của quân và dân Sơn La, ngày 23/6/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện khen:

"Bác rất vui mừng trong các ngày 14, 20 và 22/6/1965, quân dân Mộc Châu và Sơn La đã bắn rơi 09 máy bay Mỹ và bắt sống một số phi công Mỹ.

Thay mặt Trung ương Đảng và Chính Phủ, Bác gửi lời khen ngợi bộ đội, đồng bào và cán bộ các dân tộc Tây Bắc đã anh dũng chiến đấu, thắng lợi vẻ vang.

Bác nhắc nhở bộ đội, đồng bào và cán bộ Tây Bắc phải luôn cảnh giác, chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch.

Quân đội và đồng bào Tây Bắc hãy phát huy truyền thống vẻ vang Điện Biên Phủ, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc anh em, giữa bộ đội và nhân dân thi  đua sản xuất, chiến đấu giỏi, quyết giành nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa". (Hồ Chí Minh - toàn tập, tập 11, trang 455)

Lời khen của Người đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần, khí thế đánh Mỹ của lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc. Trên tất cả các trận địa của tỉnh, tinh thần và khí thế thi đua giết gặc lập công của Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an vũ trang và dân, tự vệ ngày một lên cao. Đặc biệt là ở nhiều nơi bằng súng bộ binh, quân và dân các dân tộc Sơn La đã bắn rơi máy bay phản lực như: Tổ dân quân xã Chiềng La, Chiềng Sinh (Mường La), dân quân xã Tông Lệnh (Thuận Châu), dân quân Nà Nghịu (Sông Mã), dân quân xã Chiềng Đông, Viêng Lán, Tú Nang (Yên Châu), dân quân xã Chiềng Kheo (Mai Sơn), dân quân xã Phiêng Ban (Bắc Yên), dân quân xã Kim Bon, Tân Phong, Quang Huy (Phù Yên) ... riêng Kim Bon là xã vùng cao đầu tiên trên Miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ.

Ghi nhận công lao thành tích, của quân và dân trong tỉnh, cuối năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thưởng Cờ luân lưu "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" và Huân chương Độc lập hạng Nhì cho quân và dân các dân tộc Sơn La. Phần thưởng cao quý đó đã động viên, khích lệ mạnh mẽ ý chí, quyết tâm lập công lớn hơn nữa của quân và dân trong tỉnh. Kết quả trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, quân và dân các dân tộc Sơn La đã bắn rơi tổng số 76 máy bay hiện đại của đế quốc Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái bảo vệ vững chắc hậu phương Sơn La.

Thực hiện khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyên, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", vừa tăng gia, sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, vừa chiến đấu lập công xuất sắc đánh bại cuộc leo thang đánh phá miền Bắc nói chung, Sơn La nói riêng, nhân dân Sơn La đã tích cực động viên, khuyến khích thanh niên các dân tộc tòng quân chiến đấu trên các chiến trường.

Trong giai đoạn từ năm 1969 - 1972, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Sơn La đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khôi phục kinh tế - xã hội, làm tròn nhiệm vụ với tiến tuyến, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ. Đặc biệt trong giai đoạn này khi đế quốc Mỹ bất chấp mọi sự phản đối của dư luận thế giới đã huy động tối đa lực lượng không quân đánh phá trở lại miền Bắc, phong toả các bến cảng, vùng biển miền Bắc. Với kinh nghiệm chiến đấu trong cuộc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, quân và dân Sơn La bước vào cuộc chiến đấu lần thứ hai trong tư thế chủ động vững vàng. Ngày 24/6/1972, lực lượng dân quân xã Mường Do (Phù Yên) đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi tại chỗ 01 máy bay F-111, mở đầu cho thành tích bắn máy bay địch trong năm trên toàn quân khu. Trong giai đoạn này, từ ngày 18/12/1972 - 29/12/1972, Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B52 và 3.884 lần chiếc máy bay cường kích, đánh phá liên tục 12 ngày đêm và Hà Nội, Hải Phòng và một số khu vực khác. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh, quân và dân miền Bắc bằng tinh thần chiến đấu phi thường và trí tuệ và lòng quả cảm đà anh dùng chiến đấu giáng trả những đòn sấm sét, làm nên chiến thắng oai hùng 12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B-52, 05 máy bay chiến đấu F-111, buộc Chính phủ Mỹ phải đàm phán và ký hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam tại Pa-ri (Pháp) ngày 27/01/1973.

Trong suốt những năm tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, Sơn La đã cùng một lúc phải đồng thời tiến hành những nhiệm vụ trong yếu là: Vừa chi viện cho miên Nam, vừa tổ chức cuộc chiến đấu tại chỗ chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đề quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ quốc tế với cách mạng Lào; vừa chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quá trình phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ trên, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc đã không ngừng nâng cao công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức, tư tưởng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với nhiệm vụ cách mạng. Nên đã tạo được sự nhất trí cao, đồng thời phát huy được khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ. 

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc gần 10.949 nghìn thanh niên ưu tú con em các dân tộc Sơn La đã hăng hái lên đường nhập ngũ (chiếm 38 % tổng số nam nữ thanh niên, chiếm 2,7 % dân số trong tỉnh - so với số dân năm 1974), tham gia chiến đấu trên khắp các chiến trường. Mùa xuân năm 1975, Trung đoàn 148 mang tên trung đoàn Sơn La được đứng trong đội hình của sư đoàn 316 - đơn vị chủ lực thiện chiến của Tây Bắc đã vinh dự được tham gia các chiến dịch lớn giải phóng Miền Nam và lập nên những chiến công vang dội, cùng cùng toàn quân và toàn dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975). Với thành tích đó nhiều tập thể và cá nhân đã được Đảng, nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu cao quý anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, huân chương, huy chương, bằng khen ...

 Phần thứ ba

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ  TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi, Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La cũng như cả nước tập trung sức lực và trí tuệ tiến hành công cuộc cách mạng đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ cơ bản của lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La là:

- Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 03 thứ quân vững mạnh về mọi mặt đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.

- Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc biên giới của Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trong toàn tỉnh.

- Tham gia xây dựng kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng.

- Làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.

Song song với nhiệm vụ củng cố và xây dựng lực lượng theo tổ chức biên chế mới, tăng cường công tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La còn tham gia xây dựng kinh tế; cùng các cơ quan dân chính Đảng cử nhiều cán bộ đi tăng cường ở các huyện vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới nhằm hỗ trợ địa phương xây dựng cơ sở chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế, giáo dục, y tế góp phần nâng cao đời sống của nhân dân các dân tộc. Đó chính là những hình ảnh cao đẹp của sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong địa bàn tỉnh. Đồng thời phản ánh hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La trong thực hiện chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất.

Tháng 02 năm 1979, cuộc chiến tranh xâm lược trên biên giới phía Bắc xảy ra, tình hình nghiêm trọng đó đặt ra cho lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La nhiệm vụ mới sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn đồng thời chi viện sức người sức của cho chiến trường góp phần đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của địch.

Tháng 3 năm 1979, Trung đoàn 754 được thành lập có nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu đã bổ sung hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ cho các đơn vị trực tiếp chiến đấu ở chiến trường; đồng thời sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống sảy ra trong địa bàn tỉnh.

Cùng với Trung đoàn 754, Trường Quân sự tỉnh Sơn La được thành lập ngày 10/5/1979 với nhiệm vụ đào tạo, tập huấn, huấn luyện, bổ túc cán bộ quân sự địa phương cho Tỉnh và các nhiệm vụ khác ... đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong giai đoạn mới.

Đầu năm 1985 theo yêu cầu điều động của trên, Trung đoàn 754 lên đường  làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc (Vị Xuyên - Hà Tuyên). Đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng với quân và dân trên địa bàn chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Thực hiện thỏa thuận giữa Đảng, Nhà nước và Quân đội 2 nước, một số lượng lớn chuyên gia Quân sự và Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục được cử và điều động công tác đến công tác tại Lào. Trung đoàn 184 của tỉnh trong đội hình Binh đoàn 678 của Bộ quốc phòng (Mặt trận 379) được cử sang giúp Bạn ở 6 tỉnh Bắc Lào. Bằng tình cảm anh em thủy chung, trong sáng và tinh thần quốc tế cao cả, các đồng chí chuyên gia quân sự và Quân tình nguyện Việt Nam nói chung, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 184 nói riêng đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, phối hợp chặt chẽ với chính quyền các địa phương và lực lượng vũ trang của Bạn Lào trấn áp các tổ chức phản động, xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền các cấp vững mạnh và đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội góp phần tích cực vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân 6 tỉnh Bắc Lào. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh, những mất mát âm thầm đó mãi mãi đi vào lịch sử như những nghĩa cử cao đẹp của người chiến sỹ cách mạng, góp phần tiếp nối và tô đậm thêm truyền thống đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt - Lào. Nhiều tập thể và cá nhân đã được Nhà nước Lào và Việt Nam tặng thưởng nhiều phần thưởng cao qúy.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay, Đảng uỷ, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh Sơn La tập trung triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng uỷ, Bộ tư lệnh Quân khu 2 và Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La. Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh tích cực, chủ động khắc phục khó khăn cùng nhân dân các dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới tham gia phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm vững chắc về Quốc phòng - An ninh và đấu tranh làm thất bại chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.

Để hoàn thành nhiệm vụ, trước yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới.  Đảng uỷ Quân sự tỉnh đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo trong các kỳ Đại hội Đảng bộ, làm tốt công tác tham mưu cho Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh trong tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ Quốc phòng - quân sự địa phương hàng năm. Tiến hành tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng -  an ninh cho các đối tượng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; gắn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Tập trung xây dựng lực lượng thường trực "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại" với những bước đi vững chắc, toàn diện. Cấp uỷ, chỉ huy các cấp đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng; cấp uỷ Đảng các cấp. Tổ chức tốt công tác xây dựng lực lượng, công tác động viên, tuyển quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu. Không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã hoàn thành 100% kế hoạch bảo đảm chất lượng. Kết hợp chặt chẽ việc xây dựng Đảng bộ TSVM gắn với xây dựng cơ quan đơn vị VMTD “Mẫu mực, tiêu biểu”. Tổng kết hàng năm có 100 % cấp uỷ, tổ chức đảng đạt trong sạch vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 97,3%, 100 % các cơ quan, đơn vị được công nhân đơn vị vững mạnh toàn diện. Chính vì vậy chất lượng, hiệu quả công tác của các đơn vị ngày một được nâng cao góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được cấp uỷ, chính quyền địa phương và nhân các dân tộc tin yêu.   

Đối với lực lượng dân quân tự vệ: Đã tập trung tham mưu, chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ của tỉnh có "số lượng hợp lý, chất lượng cao" theo đúng quy định của Luật Dân quân tự vệ, hiện nay lực lượng DQTV toàn tỉnh đạt đạt tỷ lệ 1,7% dân số; tỷ lệ lãnh đạo trong lực lượng đạt 30,7%.  

Đối với lực lượng dự bị động viên: Thường xuyên được đăng ký, quản lý, phúc tra, tổ chức báo động, kiểm tra và tiến hành huấn luyện, diễn tập, luyện tập hàng năm đúng quy định. Không ngừng quan tâm củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, điều chỉnh, bổ sung nguồn và thay thế theo quy định, nâng cao chất lượng của lực lượng dự bị động viên, nhất là chất lượng chính trị, tỷ lệ lãnh đạo đạt 22,48% đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. 

Thực hiện chức năng đội quân công tác, Bộ CHQS tỉnh đã chủ động tham mưu, đề xuất Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và trực tiếp tổ chức chỉ huy cán bộ, chiến sĩ lực lượng thường trực, Dân quân tự vệ và Dự bị động viên tích cực, chủ động phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, phòng - chống cháy rừng. Qua các đợt diễn tập, luyện tập và các đợt giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ trên các địa bàn của tỉnh như: Mường La, Mộc Châu, Mai Sơn, Phù Yên, Thành phố Sơn La… Triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Quân khu và địa phương được cấp uỷ, chính quyền và nhân dân các dân tộc ghi nhận, đánh giá cao.

Xác định rõ công tác dân vận là nhiệm vụ chính trị, là chức năng quan trọng của Quân đội. Lực lượng vũ trang tỉnh đã bám sát sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên và tình hình thực tiễn tại địa phương triển khai thực hiện hiệu quả phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, trong đó tập trung tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; tham gia chuyển dịch cơ cấu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người dân trên địa bàn; tham gia củng cố xây dựng hệ thống chính trị địa phương vững mạnh toàn diện. Chỉ đạo các đơn vị cơ sở tham gia xây dựng cơ sở chính trị, giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, tu sửa kênh mương, làm đường giao thông, triển khai có hiệu quả mô hình giúp dân xoá nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn... Bằng những việc làm đó, LLVT tỉnh đã thể hiện được bản chất, truyền thống của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân, phát huy được sức dân trong thực hiện nhiệm vụ Quân sự, Quốc phòng địa phương.

Thực hiện chủ trương đối ngoại quân sự của Đảng, nhà nước ta, sự chỉ đạo của Đảng ủy Quân khu, Tỉnh uỷ Sơn La. Bộ CHQS tỉnh đã chủ động, tích cực duy trì tốt mối quan hệ đối ngoại, hợp tác với Bộ  CHQS các tỉnh Bắc Lào, trọng tâm là Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh Hủa Phăn, Luông Pha Băng, U Đôm Xay nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Tổ chức các đoàn cán bộ của Bộ CHQS tỉnh sang thăm và làm việc với các tỉnh Bắc Lào; đón tiếp các đoàn cán bộ của Bạn đến thăm, làm việc tại Bộ CHQS tỉnh theo biên bản ghi nhớ, bảo đảm chặt chẽ, trọng thị, đúng nguyên tắc đối ngoại; tổ chức tập huấn, giúp bạn sửa chữa, bảo quản vũ khí trang bị, khám, chữa bệnh, đoà tạo tiếng Việt, tập huấn Quân y, kỹ thuật; chỉ đạo Ban CHQS các huyện biên giới duy trì thường xuyên chế độ giao ban với các huyện của Bạn. Công tác đối ngoại quân sự đã góp phần xây dựng và tăng cường mối quan hệ đoàn kết quốc tế giữa 02 nước, thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước ta, xây dựng tuyến biên giới Việt Nam - Lào hoà bình, ổn định và phát triển.

80 năm qua, Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La đã không ngừng phát triển và trưởng thành vượt bậc. Đặc biệt trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang tỉnh được tôi luyện trong thực tế chiến đấu và phục vụ chiến đấu, trong huấn luyện, rèn luyện tham gia khắc phục hậu quả, thiên tai, bão lũ… đã bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất, truyền thống người chiến sĩ Tây Bắc anh hùng và là nguồn bổ sung lớn cho lực lượng vũ trang chính quy. Quân và dân Sơn La đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm quý báu trong tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện chống xâm lược. Lòng yêu nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì thống nhất đất nước, vì chủ nghĩa xã hội được củng cố vững vàng, đó là cơ sở chắc chắn để tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng kẻ thù và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Đảng uỷ Bộ tư lệnh Quân khu 2, Đảng uỷ Công an Trung ương, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng mà thường xuyên và trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Sơn La, với ý chí quyết chiến, quyết thắng và nghị lực phi thường, bằng sự nỗ lực rèn luyện, học tập kỹ thuật, chiến thuật, quân sự, thấu suốt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, vừa xây dựng, vừa chiến đấu vừa sản xuất, quân và dân Sơn La đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang: đánh thắng thưc dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ với tiền tuyến lớn và nghĩa vụ quốc tế thuỷ chung trong sáng với cách mạng Lào; xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững vùng biên cương phía Tây của Tổ quốc.

Những thắng lợi đó bắt nguồn từ truyền thống cao đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, một quân đội "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu", trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, đem lại độc lập tự do cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Lời thề sắc son "Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội" đã giúp cho lực lượng vũ trang nhâ dân tỉnh Sơn La có sức mạnh to lớn để vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Truyền thống kiên cường, bất khuất, quyết chiến, quyết thắng, truyền thống đoàn kết, dân chủ và kỷ luật, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, đoàn kết quốc tế trong sáng không ngừng được phát huy. Đó chính là nguồn sức mạnh vô tận để lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La chiến thắng mọi kẻ thù.

Ghi nhận công lao to lớn của quân và dân Sơn La, Đảng Nhà nước đã tặng danh hiệu cao quý "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" cho Quân và dân tỉnh Sơn La (06/11/1978) và 32 đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; truy tặng và phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 14 cá nhân; 121 bà mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam anh hùng". Ngoài ra, nhiều tập thể và cá nhân được tặng thưởng Cờ và huân chương, huy chương các loại. Ghi nhận cống hiến to lớn của Quân và dân Sơn La đối với cách mạng Lào, nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã trao tặng Huân chương ÍtXaLa - huân chương cao quý nhất của Nhà nước Lào và Huân chương Lao động cho Quân và dân Sơn La.

Lịch sử của lực lượng vũ trang Sơn La và nhân dân các dân tộc trong tỉnh hoà vào dòng chảy của lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân cả nước và đã lập nên những chiến công huy hoàng. Với bước trưởng thành mới cùng với truyền thống vẻ vang và những bài học kinh nghiệm quý báu, Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La vững bước tiến vào giai đoạn cách mạng mới của cả nước thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá trong chiến lược "Diễn biến hoà bình" - bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

Lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La vô cùng tự hào về sự trưởng thành, lớn mạnh và những cống hiến xứng đáng vào thắng lợi to lớn của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La. Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La mãi mãi đi theo con đường cách mạng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; quyết tâm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Sơn La cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, góp phần cùng với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vững tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

PHỤ LỤC

1. ANH HÙNG LLVT NHÂN DÂN

* Tập thể: 32 đơn vị

TT

Đơn vị được phong tặng

Số; ngày, tháng, năm

1

LLVTND tỉnh Sơn La   

ngày 06/11/1978

2

Quân và dân thị xã Sơn La

ngày 06/11/1998

3

LLVTND huyện Phù Yên

ngày 28/04/2000

4

LLVTND huyện Mộc Châu 

ngày 28/04/2000

5

LLVTND huyện Mai Sơn 

ngày 18/04/2001

6

LLVTND huyện Yên Châu 

ngày 01/02/2002

7

LLVTND huyện Mường La

QĐ số 334/QĐ-CTN ngày 18/6/2003

8

LLVTND huyện Sông Mã (nay tách thành 2 huyện Sông Mã và Sốp Cộp)

QĐ số 1006/QĐ-CTN ngày 6/12/2004

9

LLVT và nhân dân huyện Quỳnh Nhai

QĐ số 497/QĐ-CTN ngày 23/5/2005

10

LLVT và nhân dân huyện Thuận Châu

QĐ số 497/QĐ-CTN ngày 23/5/2005

11

LLVT và nhân dân huyện Bắc Yên

QĐ số 497/QĐ-CTN ngày 23/5/2005

12

Dân quân xã Tú Nang huyện Yên Châu

ngày 1/01/1967

13

Dân quân xã Chiềng Hặc huyện Yên Châu

ngày 25/08/1970

14

Ban công an xã Chiềng La huyện Thuận Châu   

ngày 03/09/1973

15

Đồn biên phòng Chiềng Khương 

ngày 31/12/1973

16

Quân và dân xã Mường Chanh huyện Mai Sơn    

ngày 06/11/1998

17

Quân dân xã Mường Hung huyện Sông Mã          

ngày 06/11/1998

18

Quân dân xã Long Hẹ huyện Thuận Châu           

ngày 06/11/1998

19

Quân dân xã Mường Khoa huyện Bắc Yên              

ngày 06/11/1998

20

Ban 61 - Công an tỉnh Sơn La                            

ngày 06/11/1998

21

Bưu điện tỉnh Sơn La                                        

ngày 06/11/1998

22

LLVTND xã Mộc Hạ huyện Mộc Châu    

ngày 28/04/2000

23

LLVTND xã Cò Nòi huyện Mai Sơn                

ngày 28/04/2000

24

Ban công an xã Tân Lập huyện Mộc Châu          

ngày 06/11/1998

25

LLVTND xã Mường Chùm huyện Mường La  

ngày 28/04/2000

26

LLVTND xã Mường Bang huyện Phù Yên

ngày 28/04/2000

27

LLVTND xã Tân Phong huyện Phù Yên

ngày 28/04/2000

28

LLVT và nhân dân xã Mường Bằng huyện Mai Sơn

ngày 08/11/2000

29

LLVT và nhân dân xã Nậm Păm huyện Mường La

QĐ số 522/QĐ-CTN ngày 15/08/2003

30

LLVT và nhân dân xã Bản Lầm huyện Thuận Châu

QĐ số 522/QĐ-CTN ngày 15/08/2003

31

LLVT và nhân dân xã Chiềng Xôm thị xã Sơn La

QĐ số 522/QĐ-CTN ngày 15/08/2003

32

LLVT và nhân dân xã Hồng Ngài huyện Bắc Yên

ngày 23/5/2005

 

* Cá nhân: 14 đồng chí.

TT

Danh sách

Số; ngày, tháng, năm

1

Đồng chí Đèo Văn Khổ (đã từ trần)

được phong tặng ngày 01/01/1967

2

Đồng chí Nguyễn Đình Thử (đã từ trần)

được phong tặng ngày 01/01/1967

3

Đồng chí Cà Văn Khum (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 22/12/1969

4

Đồng chí Vì Văn Pụn (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 03/09/1973

5

Đồng chí Đinh Đức Dừa (đã từ trần)

được phong tặng ngày 06/11/1978

6

Đồng chí Lò Văn Giá (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 10/12/1995   

7

Đồng chí Nguyễn Hoài Xuân (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 11/08/1996

8

Đồng chí Đinh Văn Tỷ (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 22/08/1998

9

Đồng chí Lò Văn Hắc (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 11/06/1999

10

Đồng chí Hà Văn Ắng (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 01/06/1999

11

Đồng chí Vàng Lý Tả (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 11/06/1999

12

Đồng chí Lù Công Thắng (Liệt sĩ)

được truy tặng ngày 09/11/2010

13

Đồng chí Trần Anh Tuấn

được phong tặng ngày 04/6/2019

14

Đồng chí Mai Hoàng

được phong tặng ngày 04/6/2019

 KHEN THƯỞNG HUÂN CHƯƠNG CHO LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TỈNH

- Huân chương Độc Lập hạng Nhì (năm 1965)     

- Huân chương Sao Vàng (năm 1985)

- Huân chương Hồ Chí Minh (năm 1985)

- Huân chương Quân công hạng Nhất (năm 1984)

- Huân chương Chiến công hạng Nhì ( năm 1978)

- Huân chương Chiến công hạng Nhất (năm 2002)

- Huân chương ITXALA (huân chương tự do)

- Huân chương Chiến công hạng Nhì (Bộ Quốc phòng Lào tặng ngày 14/10/2024)

- Huân chương Lao động hạng Ba (Nhà nước Lào tặng ngày 12/12/2007)

- Huân chương Lao động hạng Ba tặng Ban Công tác đặc biệt của Bộ CHQS tỉnh ngày 12/12/2007

- Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba (22/6/2010)

- Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba lần 2 (08/01/2016)

MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG: 121 MẸ

1. TỈNH ĐỘI TRƯỞNG, CHỈ HUY TRƯỞNG BỘ CHQS TỈNH QUA CÁC THỜI KỲ                     

  1. Đồng chí Nguyễn Bá Toản

Tỉnh đội trưởng đầu tiên năm 1947

  1. Đồng chí Nguyễn Nghĩa (Lương Văn Tốn)

Tỉnh đội trưởng từ năm 1954 đến năm 1961

  1. Đồng chí Phạm Duy Tiến

Tỉnh đội trưởng từ năm 1962 đến năm 1963

  1. Đồng chí Lò Văn Sôn

Tỉnh đội trưởng từ năm 1963 đến năm 1974

  1. Đồng chí Hoàng Chim

Chỉ huy trưởng từ năm 1974 đến năm 1981

  1. Đồng chí Quang Trung

Chỉ huy trưởng từ năm 1982 đến năm 1986

  1. Đồng chí Đinh Thuận

Chỉ huy trưởng từ năm 1987 đến năm 1993

  1. Đồng chí Bàn Tân

Chỉ huy trưởng từ năm 1994 đến năm 1997

  1. Đồng chí Nguyễn Song Phi

Chỉ huy trưởng từ năm 1998 đến năm 2001

  1. Đồng chí Cầm Xuân Ế

Chỉ huy trưởng từ năm 2001 đến năm 2005

  1. Đồng chí Nguyễn Kim Di

Chỉ huy trưởng từ năm 2005 đến 6.2010

  1. Đồng chí Hoàng Ngọc Dũng

Chỉ huy trưởng từ tháng 5.2010 đến 7.2016

  1. Đồng chí Trần Xuân Cương

Chỉ huy trưởng từ tháng 10.2016 đến 11.2019

  1. Đồng chí Tô Quang Hanh

Chỉ huy trưởng từ tháng 12.2019 - 5/2024

  1. Đồng chí Chu Văn Thành

Chỉ huy trưởng từ tháng 7.2024 đến nay

2. CHÍNH TRỊ VIÊN, CHÍNH UỶ, PHÓ CHỈ HUY TRƯỞNG CHÍNH TRỊ BỘ CHQS TỈNH QUA CÁC THỜI KỲ

  1. Đồng chí Lù Thanh Sơn

Chính trị viên từ năm 1963 đến năm 1965

  1. Đồng chí Cầm Dịn

Chính trị viên từ năm 1965 đến năm 1970

  1. Đồng chí Quàng Huyên

Chính uỷ từ năm 1970 đến năm 1979

Phó CHT Chính trị từ năm 1981 đến năm 1986

  1. Đồng chí Trần Quân Lập

Chính uỷ từ năm 1979 đến năm 1981

  1. Đồng chí Vũ Thuỷ Đán

Phó CHT Chính trị từ năm 1987 đến năm 1991

  1. Đồng chí Nguyễn Văn Riền

Phó CHT Chính trị từ năm 1992 đến năm 1994

  1. Đồng chí Cầm Quốc Quân

Phó CHT Chính trị  từ năm 1995 đến năm 2003

  1. Đồng chí Nguyễn Xuân Hoà

Phó CHT Chính trị từ năm 2003 đến 5/2006, Chính uỷ từ 5/2006 đến 9/2011

  1. Đồng chí Cầm Văn Câu

Chính uỷ từ 10/2011 đến 02/2015

  1. Đồng chí Hoàng Đình Tường

Chính ủy từ tháng 3.2015 đến 5.2022

  1. Đồng chí Đào Ngọc Phương

Chính ủy từ tháng 6.2022 đến 02.2024

  1. Đồng chí Sa Minh Nghĩa

Chính ủy từ 3/2024 đến nay

 

Bộ CHQS tỉnh Sơn La
BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới