Nhiều nhiệm kỳ qua, Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm chăm lo công tác phát triển Đảng. Nhưng đến năm 2006, vẫn còn 80 cơ sở (76 bản) chưa có đảng viên, 995/3.181 cơ sở (700 bản) chưa có chi bộ. Công tác phát triển đảng viên, xây dựng tổ chức Đảng ở những cơ sở này gặp nhiều khó khăn, bởi hầu hết nằm ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, tồn tại nhiều bất cập, như: Phong tục, tập quán lạc hậu, nghèo, đói, phức tạp về an ninh trật tự...
Những khó khăn, bất cập
ở nơi chưa có đảng viên, tổ chức Đảng
Trong những chuyến công tác về vùng chưa có đảng viên, tổ chức Đảng, không thể quên câu chuyện ở bản Pa Cốp, xã Vân Hồ (Vân Hồ) với cung đường hình chữ S vắt ngang qua. Gần 10 năm trước, đến nơi này dịp cuối năm, “vén” màn sương mù vào bản, thấy hiện hữu cái nghèo, đói, lạc hậu...
Nhắc lại chuyện cũ, Bí thư Chi bộ bản Vàng A Chứ trùng giọng: Lúc Pa Cốp chưa có chi bộ. Bản có khoảng 150 hộ với 750 nhân khẩu người dân tộc Mông sống phân tán thành 5 khu dân cư. Cá biệt có 25 hộ dân sinh sống trên khu “sân bay”. Các già làng kể, thời chống Pháp, bộ đội ta phòng thủ không cho địch hạ máy bay ở khu đất bằng trên núi cao cuối bản Pa Cốp, nên bà con gọi đó là khu “sân bay”. Các hộ dân sống ở khu “sân bay” không điện, không trường học, không công trình nước sinh hoạt. Hầu hết là hộ nghèo, đẻ nhiều, tảo hôn; đường sá đi lại khó khăn, đa số trẻ con thất học, mù chữ như ông, bà, bố, mẹ chúng.
Đảng ủy xã Chiềng Xuân (Vân Hồ) triển khai công tác phát triển đảng viên ở bản chưa có tổ chức Đảng, cơ sở ít đảng viên.
Tnh hình chung của bản Pa Cốp khi ấy khá hơn so với dân khu “sân bay”, song 80% số hộ trong bản thuộc diện nghèo. Trẻ con hầu hết chỉ học biết mặt chữ, rồi theo bố mẹ đi làm nương; tập quán sản xuất lạc hậu, đẻ nhiều con, tảo hôn, nhức nhối nhất là một số người tham gia vào hoạt động buôn bán, vận chuyển ma túy... Đồng chí Bàn Văn Sênh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy xã Vân Hồ (Vân Hồ) trăn trở: Không riêng bản Pa Cốp, năm 2006, xã còn 4 bản chưa có tổ chức Đảng. Đảng ủy xã đã rà soát quần chúng để bồi dưỡng kết nạp Đảng; nhưng, rất ít quần chúng đủ trình độ, số đủ trình độ lại vi phạm chính sách dân số-KHHGĐ, vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng, thậm chí “dính” vào tệ nạn ma túy.
Có dịp đến không ít các bản vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới nơi chưa có đảng viên, tổ chức Đảng đều nhận thấy những khó khăn, bất cập. Cá biệt, những bản chưa có đảng viên, còn nhiều vấn đề tồn tại, nhất là liên quan đến ma túy, như: bản Hua Lạnh, xã Nậm Lạnh và bản Nặm Khúm, xã Mường Lèo (Sốp Cộp); bản Đông Vai, xã Chiềng Ve (Mai Sơn); bản Ít Lót, xã Chiềng Cang; Co Hay, xã Chiềng Khoong và Co Đứa, xã Mường Sại (Sông Mã)... Mặc dù được các cấp, các ngành quan tâm triển khai nhiều chính sách, chương trình đầu tư hỗ trợ, song do địa bàn cách trở, dân cư phân tán nên việc đầu tư hạ tầng cơ sở chưa đồng bộ. Mặt khác, nguyên nhân sâu xa hơn nằm nội tại ngay chính cơ sở, đó là tập quán lạc hậu, trình độ dân trí thấp, nhận thức về pháp luật hạn chế... Đó là những “rào cản” hạn chế sự phát triển KT-XH, cũng như công tác phát triển đảng viên ở các bản vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới. Thực tế ở cấp cơ sở không có tổ chức Đảng và đảng viên lãnh đạo, đôn đốc, giám sát thì vai trò của chính quyền, các tổ chức đoàn thể mờ nhạt. Trong khi đó, những cơ sở trên đều cách xa trung tâm trên chục km, vào mùa mưa, các phương tiện giao thông khó khăn, thì ngay cả lãnh đạo xã vài tháng mới xuống các cơ sở này là chuyện không hiếm. Vậy nên, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cơ sở hoạt động có nhiều bất cập, kém hiệu quả.
Qua rà soát, thời điểm đầu năm 2006, toàn tỉnh còn 995/3.181 cơ sở chưa có chi bộ (700 bản, 144 trường học, 151 trạm y tế), 86 cơ sở chưa có đảng viên (76 bản, 6 trường học, 4 trạm y tế), Ban Thường vụ tỉnh ủy đã thẳng thắn nhìn nhận thực tế, các cơ sở chưa có đảng viên và chưa có chi bộ hầu hết ở các bản vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới thuộc các xã đặc biệt khó khăn về điều kiện sản xuất và sinh hoạt, địa hình cắt cứ; cơ sở hạ tầng thấp kém, mật độ dân cư thưa, trình độ dân trí thấp. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển đảng viên ở các cơ sở này chưa được quan tâm đúng mức, do đó, khó khăn trong công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về Đảng và quán triệt, triển khai các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đến quần chúng nhân dân. Các hủ tục lạc hậu còn nặng nề (tảo hôn, sinh nhiều con), một số quần chúng thuộc diện di cư từ nơi khác đến (di cư tự do) nên khó khăn trong công tác thẩm tra, xác minh lý lịch đối tượng kết nạp Đảng. Thậm chí, quần chúng ở một số bản vi phạm về tệ nạn ma túy đã gây cản trở, khó khăn đến việc xây dựng, phát triển nguồn kết nạp đảng viên...
Những khó khăn, bất cấp trên là những “rào cản” trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển đảng viên và thành lập chi bộ ở cơ sở, cũng như triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển KT - XH, đảm bảo QP -AN trên địa bàn.
Chủ trương đúng, trúng, triệt để
Trước thực trạng khó khăn, bất cập ở cơ sở chưa có tổ chức Đảng, đảng viên và những kết quả trong công tác phát triển Đảng, ngày 10/2/2006, Ban Thường vụ tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU về phát triển Đảng ở bản, trường học, trạm y tế chưa có đảng viên và tổ chức Đảng.
Với quyết tâm cao nhất thực hiện hiệu quả Nghị quyết đã đề ra, Ban Thường vụ tỉnh ủy đã quyết liệt chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp để phát triển Đảng ở bản, trường học, trạm y tế chưa có đảng viên và tổ chức Đảng. Quá trình triển khai, định kỳ đều tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm, giải quyết kịp thời vướng mắc, phát sinh từ cơ sở, đồng thời, đề ra nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả thực hiện Nghị quyết. Đi kèm với Nghị quyết số 03-NQ/TU là một loạt các văn bản chỉ đạo sâu sát, kịp thời, triệt để, như: Hướng dẫn cụ thể về đối tượng, tiêu chuẩn và quy trình các bước thực hiện; Thông báo Kết luận số 595-KL/TU ngày 21/4/2008 của Ban Thường vụ tỉnh ủy về tiếp tục lãnh đạo thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU; Kế hoạch số 93-KH/TU ngày 30/1/2014 của Ban Thường vụ tỉnh ủy về “công tác phát triển đảng viên” đến tháng 6/2015; mới đây, Tỉnh ủy ra Kết luận số 233-KL/TU về Đề án “Bố trí chức danh cán bộ BĐBP tỉnh Sơn La tăng cường các xã biên giới”... tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp.
Chi bộ cụm bản Chả, xã Nậm Mằn (Sông Mã) họp bàn,
triển khai Nghị quyết số 03 của Tỉnh ủy về công tác phát triển đảng viên.
Xác định khó khăn mấu chốt về công tác phát triển đảng viên ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới là về nguồn quần chúng ưu tú, đảm bảo các điều kiện để bồi dưỡng, kết nạp Đảng, Ban Thường vụ tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các địa phương, cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng về tình hình KT - XH, QP - AN, tình hình tổ chức và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, xã, bản, trọng tâm là khảo sát đánh giá, phân tích chất lượng quần chúng, thẩm định số đối tượng cảm tình Đảng đã được công nhận. Chỉ đạo các tổ chức đoàn thể tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên, hội viên ưu tú với chi bộ và lựa chọn đưa vào danh sách bồi dưỡng, rèn luyện tạo nguồn phát triển đảng viên. Sâu sát hơn là phân công, giao nhiệm vụ cho các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ, đảng viên phụ trách, giúp đỡ cơ sở để trực tiếp theo dõi, giúp đỡ cơ sở xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển đảng viên ở cơ sở chưa có đảng viên và tổ chức Đảng. Đồng thời, điều động cán bộ, đảng viên trực tiếp phụ trách, giúp đỡ các cơ sở; bố trí sắp xếp, luân chuyển cán bộ, giáo viên, cán bộ y tế xã về các cơ sở chưa có đảng viên, tổ chức Đảng để tạo nguồn phát triển đảng viên và xây dựng chi bộ. Chỉ đạo các cơ sở khi đủ điều kiện tiến hành thành lập chi bộ, xây dựng quy chế hoạt động; hướng dẫn nội dung và phương pháp sinh hoạt, nâng cao năng lực lãnh đạo. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo của MTTQ, các đoàn thể cấp trên đối với cơ sở trong việc phát động các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện các cuộc vận động như: phong trào thanh niên lập nghiệp, phụ nữ giúp nhau làm kinh tế, nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, thực hiện cam kết “5 có, 5 không” trong đồng bào dân tộc Mông... tạo môi trường để quần chúng rèn luyện, phấn đấu, cống hiến. Đồng thời, phát hiện bồi dưỡng nhân tố tích cực để giới thiệu phát triển đảng viên.
Có thể nói, Nghị quyết số 03-NQ/TU là sự quyết tâm của Đảng bộ tỉnh, hướng mục tiêu về địa bàn khó khăn, nhất là các bản vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để phát triển đảng viên, xây dựng, thành lập chi bộ, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện mọi lĩnh vực, địa bàn.
(Còn nữa)
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!