Sau 13 năm sống ly thân (trong thời gian này người vợ cũng đã chuyển đi ở một nơi khác), anh Hà Văn Thành, bản Tiên Chung, xã Mường Sai (Sông Mã) mới được Tòa án huyện Sông Mã tuyên chấp nhận thuận tình ly hôn.
Khu đất tranh chấp giữa chị Lê Thị Thính với anh Hà Văn Thành.
Tóm tắt vụ án
Ngày 29 tháng 5 năm 2000, anh Hà Văn Thành kết hôn với chị Lê Thị Thính, cả hai là giáo viên của huyện Sông Mã. Do chưa có đất và nhà ở, năm 2002, anh Thành mua một mảnh đất rộng 111m2, nằm bên trục Quốc lộ 4G, tại khu vực bản Tiên Chung, xã Mường Sai, huyện Sông Mã để dựng ngôi nhà gỗ sinh sống. Do mâu thuẫn, hai vợ chồng đã ly thân năm 2003 (chị Thính chuyển đến sống ở xã Chiềng Khương; từ đó đến nay, anh Thành và con riêng vẫn ở lại ngôi nhà gỗ ở bản Tiên Chung, xã Mường Sai). Năm 2005, anh Thành viết đơn xin ly hôn nhưng Tòa án nhân dân huyện Sông Mã bác đơn ly hôn (anh Thành kháng cáo lên Tòa phúc thẩm nhưng vẫn bị bác đơn ly hôn). Năm 2015 (10 năm sau), hai vợ chồng được Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xử ly hôn theo Quyết định số 27/2015/QĐST-HNGĐ ngày 9/2/2015 do Chánh án Tòng Thị Hồng làm chủ tọa. Theo Quyết định này, Tòa án công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Hà Văn Thành và chị Lê Thị Thính. Tuy nhiên, điều khó hiểu ngay trong bản án được tuyên, tài sản chung của hai vợ chồng chỉ là các vật dụng trong gia đình như: nồi, bàn ghế, ti vi... đã cũ được định giá 70 triệu đồng do hai vợ chồng thỏa thuận giao cho anh Thành sử dụng. Hai vợ chồng không có khoản nợ chung nào.
Ngày 25/3/2016, Tòa án nhân dân huyện Sông Mã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự đòi lại tài sản sau ly hôn giữa nguyên đơn là chị Lê Thị Thính và bị đơn là anh Hà Văn Thành, do thẩm phán Phạm Bá Toàn, chủ tọa phiên tòa. Tại phiên tòa, chị Thính đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh Thành trả lại cho chị thửa đất 111m2 là tài sản riêng của chị mua trước khi kết hôn với anh Thành cùng ngôi nhà gỗ, một số tài sản trên đất mà anh Thành đang sinh sống và số tiền 11 triệu đồng anh Thành vay trước khi kết hôn cùng tiền lãi phát sinh.
Tại phiên tòa, anh Thành thừa nhận trước khi kết hôn có vay số tiền của chị Thính 11 triệu đồng, nhưng đã trả năm 2001. Riêng đối với thửa đất, anh Thành khẳng định là anh mua của ông Cà Văn Dưởng năm 2002 với số tiền 3 triệu 600 nghìn đồng, là tiền riêng của cá nhân, có chứng thực đóng dấu của HTX bản Sai ngày 16/1/2002 nên anh không nhất trí trả lại cho chị Thính. Phiên Tòa sơ thẩm dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại tài sản sau khi ly hôn của chị Lê Thị Thính và tuyên án buộc anh Hà Văn Thành trả lại cho chị Lê Thị Thính tài sản là thửa đất mà anh đang ở từ năm 2002 đến nay, với chứng cứ có giấy mua bán của chị Thính vào ngày 20 tháng 3 năm 2000 (trước khi kết hôn với anh Thành).
Không nhất trí với bản án sơ thẩm, anh Thành đã viết đơn kháng cáo lên Tòa phúc thẩm. Ngày 26/7/2016, Tòa án Nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm buộc anh Hà Văn Thành trả lại cho chị Lê Thị Thính toàn bộ số tài sản đã được tuyên tại Bản án sơ thẩm số 07/2016/DS-ST ngày 25/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Sông Mã.
Nhiều nhân chứng, tình tiết chưa được xem xét tại các phiên xét xử
Ngay sau phiên tòa phúc thẩm, anh Hà Văn Thành đã viết đơn đề nghị các cơ quan báo chí tìm hiểu sự việc để bảo vệ sự công bằng cho các cá nhân. Phóng viên đã tiếp cận các nhân chứng trong vụ án, tìm hiểu về nguồn gốc mảnh đất, được biết: Khu vực đất tranh chấp nằm trong diện tích đất vườn trồng nhãn của ông Lò Văn Tuyên từ năm 1991. Đến năm 2000, khi làm tuyến đường Quốc lộ 4G Sơn La - Sông Mã thì tuyến đường đi vào giữa diện tích đất của gia đình ông Tuyên nên HTX bản Sai thu hồi lại để làm đất nông nghiệp. Sau trận lũ năm 2001, diện tích này bị bồi lấp đất đá nên không sử dụng trồng trọt, HTX bản Sai đã đổi diện tích đất này với diện tích đất nông nghiệp của gia đình ông Cà Văn Dưởng (sau đó ông Dưởng có bán cho một số người khác). Ông Lò Văn Tuyên khẳng định điều này là chính xác.
Tiếp xúc với ông Cà Văn Dưởng, ông khẳng định, năm 2001 mới được HTX giao đất và năm 2002, ông mới bán cho anh Thành và được lãnh đạo HTX bản Sai chứng thực đóng dấu ngày 16/1/2002. Còn đối với việc chứng nhận vào giấy tờ mua bán đất cho chị Thính, ông Dưởng nhớ khoảng năm 2010 hoặc 2011, khi đó khu vực này đang có thông tin thu hồi đất làm chợ Mường Sai nên nhiều hộ làm thủ tục cấp bìa đỏ (hiện tất cả đất khu vực này đều chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); khi đó chị Thính có đến nhờ xác nhận việc mua bán đất nên ông Dưởng nghĩ là mảnh đất đã bán cho vợ chồng chị Thính trước đây, nên có xác nhận.
Tiếp xúc với một nhân chứng quan trọng liên quan đến việc xác định mua bán đất là ông Nguyễn Văn Hội (người mua đất của ông Dưởng cùng thời điểm với anh Thành). Ông Hội khẳng định việc mua bán đất giữa anh Thành và ông Dưởng vào năm 2002 là đúng, tuy nhiên ông không biết là tiền riêng của anh Thành hay của hai vợ chồng (khi đó anh Thành và chị Thính vẫn đang ở cùng nhau).
Đề cập đến việc ra làm nhân chứng tại phiên tòa, ông Cà Văn Dưởng cũng tỏ ra khó hiểu. Ông đặt câu hỏi tại sao Tòa án xét xử (cả sơ thẩm và phúc thẩm) đều không triệu tập các nhân chứng liên quan như ông Sương, ông Kiêm (người chứng kiến việc mua bán đất), ông Hội (người mua đất với gia đình anh Thành) để làm đối chất tại Tòa án. Ông cho biết thêm: Tôi được hai lần Tòa án nhân dân Sông Mã triệu tập để làm chứng cho vụ án này, nhưng khi lên thì Tòa đều hoãn xử và phiên tòa xét xử chính thức diễn ra ngày 25/3/2016 thì lại không được triệu tập?.
Chúng tôi có cuộc làm việc với Thẩm phán Phạm Bá Toàn, là chủ tọa phiên toà xét xử sơ thẩm và là người trực tiếp thụ lý vụ án, ông Toàn cho rằng, chứng cứ duy nhất ông xử thắng kiện cho chị Lê Thị Thính tại tòa đó là biên bản giao nhượng đất ngày 20/3/2000 giữa chị Thính và ông Cà Văn Dưởng, có chữ ký xác nhận của ông Lâm Ngọc Tư, là người đại diện Ban quản lý bản Tiên Chung, xã Mường Sai (nhưng không có con dấu xác nhận của HTX). Lý giải về các chứng cứ mà anh Hà Văn Thành đưa ra, như:
HTX bản Sai chứng nhận việc ông Cà Văn Dưởng có bán đất cho anh Thành và ông Hội ngày 16/1/2002 (có đóng dấu, chữ ký của ông Dưởng (người bán đất), ông Lò Văn Sương (Trưởng bản), ông Nguyễn Văn Hội (người mua đất cùng anh Thành); biên bản bàn giao đất của bản Tiên Chung, bản Sai, bản Púng Cằm đổi đất cho ông Cà Văn Dưởng ngày 18/8/2001, ông Toàn cho rằng đều không có căn cứ giá trị, bởi lý do là ông Dưởng đã sử dụng mảnh đất này từ trước năm 2001.
Đưa ra bằng chứng về lý do là ông Dưởng đã sử dụng mảnh đất này từ trước năm 2001 không đúng thực tế. Bởi thời điểm năm 2000, mảnh đất đang tranh chấp thuộc đất của HTX bản Sai thu lại của ông Lò Văn Tuyên khi thi công Quốc lộ 4G. Thẩm phán Toàn cũng hoàn toàn bất ngờ và không trả lời được câu hỏi này của phóng viên.
Việc giải thích về lý do hai phiên xử sơ thẩm bị hoãn?; vì sao trong phiên xét xử Tòa án không triệu tập các nhân chứng liên quan để đối chất?; vì sao không giám định biên bản giao nhượng đất ngày 20/3/2000 giữa ông Cà Văn Dưởng và chị Lê Thị Thính? Thẩm phán Toàn đều không rõ ràng được nội dung này. Ông Toàn cho biết, là người trực tiếp đi thu thập chứng cứ và ghi biên bản lời khai trong hồ sơ; việc ông xử thắng kiện cho chị Thính tuy chứng cứ không rõ ràng nhưng ông vẫn tin đó là tài sản được mua bằng tiền riêng của chị Thính...
Ngày 13/9, phóng viên Báo Sơn La có cuộc làm việc với đồng chí Vì Thị Sơn, Phó chánh án Tòa án tỉnh Sơn La và Chánh án Tòa dân sự Lò Văn Điệt, Chủ tọa phiên xét xử phúc thẩm vụ án này. Theo Chánh án Tòa án dân sự Lò Văn Điệt, phán quyết của bản án phúc thẩm dựa trên hồ sơ và những chứng cứ của phiên sơ thẩm (do các chứng cứ, biên bản đã được thu thập theo đúng qui trình). Tuy nhiên, cũng giống như thẩm phán Phạm Bá Toàn, ông Điệt hoàn toàn bất ngờ trước những chứng cứ, dẫn chứng mà phóng viên Báo Sơn La đưa ra.
Chờ một phán quyết công bằng
Tất cả các nhân chứng trong vụ án phóng viên tiếp xúc đều khẳng định, chỉ biết chị Lê Thị Thính khi đã kết hôn với anh Hà Văn Thành năm 2000 và thắc mắc vì sao ngày 18/8/2000, ông Cà Văn Dưởng mới được HTX bàn giao đất lại có thể bán đất cho chị Thính vào ngày 20/3/2000 (khi đó đất vẫn đang là của HTX quản lý)...???. Việc trọng chứng ở vụ án này cũng cần xem xét thêm, nhất là việc giám định các giấy tờ để xác định mua bán đúng qui định hay sử dụng giấy tờ giả mạo của cả hai bên. Bên cạnh đó, những người liên quan đến vụ án đang đặt câu hỏi tại sao Tòa án xét xử (cả sơ thẩm và phúc thẩm) đều không triệu tập các nhân chứng liên quan để làm đối chất tại Tòa án...
Do không đồng ý với quyết định phán quyết của Tòa án, hiện anh Hà Văn Thành đã có đơn kháng nghị theo thủ tục xem xét giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm. Cơ quan chức năng cần xem xét thêm các chứng cứ, tình tiết trong vụ án để có một bản án công bằng, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mỗi công dân
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!