Vừa giành được chính quyền, Nhân dân các dân tộc Sơn La dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Việt Nam, phải tiếp tục đương đầu âm mưu bóp chết chính quyền non trẻ của quân Tưởng và bước vào 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Thời kỳ đấu tranh bảo vệ chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1945- 1954)
Tại Sơn La, ngày 31/8/1945, quân Tưởng nhân danh đồng minh đã kéo đến phá hoại chính quyền cách mạng. Trong khi đó, quân Pháp từ biên giới Trung Quốc vào chiếm tỉnh lỵ Lai Châu (cũ) và Thượng Lào rồi đánh xuống Sơn La với âm mưu chiếm toàn bộ Tây Bắc trong thời gian nhanh nhất. Ngày 3/01/1947, chúng đánh chiếm tỉnh lỵ
Nhân dân các dân tộc Sơn La dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đã cùng với lực lượng vũ trang Chiến khu II anh dũng chiến đấu cầm chân, ngăn chặn bước tiến nhanh của kẻ thù. Nhiều cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất như trận Mường Mùn (Tuần Giáo), ở Chiềng Pấc (Thuận Châu)… Do tương quan lực lượng bất lợi cho ta, lực lượng vũ trang địa phương và bộ đội chủ lực được Trung ương tăng cường phải thực hiện phương châm tác chiến vừa đánh vừa kiềm chế và tiêu hao sinh lực địch, vừa khôn khéo rút lui để bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Đến tháng 10/1947, thực dân Pháp cơ bản kiểm soát được các địa bàn trong tỉnh, trừ Mường Bang, Mường Lang, Mường Do của huyện Phù Yên.
Tình hình chiến sự diễn biến ác liệt. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, phong trào kháng chiến ở địa bàn tỉnh Sơn La đã sớm được củng cố, thúc đẩy phát triển. Tháng 10/1946, Chi bộ đảng đầu tiên của tỉnh Sơn La được thành lập tại bản Hát Lót (huyện Mai Sơn) đánh dấu sự ra đời, là bước phát triển quan trọng về tổ chức bộ máy lãnh đạo. Từ đây, các chủ trương quan trọng, cấp bách đã được triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả, trọng tâm như gấp rút đào tạo cán bộ, xây dựng căn cứ kháng chiến ở Mộc Hạ (Mộc Châu) và ở các địa bàn chiến lược, thành lập các đội vũ trang tuyên truyền, bí mật vào vùng hậu địch để vận động quần chúng xây dựng các cơ sở cách mạng; xây dựng bộ đội địa phương và phát triển rộng rãi lực lượng dân quân du kích; đẩy mạnh đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, cản phá các cuộc phản kích, khủng bố của địch vào các khu căn cứ kháng chiến; diệt tề, trừ gian và phá thế kìm kẹp của địch.
.jpg)
Với sự nỗ lực lớn của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc, sự quan tâm lãnh đạo của Trung ương Đảng, từ cuối năm 1947, phong trào kháng chiến của tỉnh từng bước được củng cố và ngày càng lớn mạnh, phát triển rộng khắp. Do đó, tỉnh Sơn La được Trung ương Đảng, Liên khu ủy X giao nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, giúp đỡ đội xung phong Lào Bắc1 xây dựng địa bàn đứng chân, tổ chức lực lượng tiến vào gây cơ sở cách mạng ở tỉnh Sầm Nưa (Lào) tại bản Phiêng Sa thuộc xã Chiềng On (nay là bản Lao Khô thuộc xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu). Nhân dân bản Lao Khô dù chịu sự kìm kẹp của bọn thực dân nhưng được giác ngộ đã phát huy tốt vai trò trong việc bảo vệ, giữ bí mật, giúp đỡ lương thực, thực phẩm cho Đội. Đến cuối năm 1948, Đội xung phong Lào Bắc đã xây dựng được các cơ sở đứng chân trên các địa bàn tỉnh Sầm Nưa. Với sự hình thành các khu căn cứ Lao Măng, Lao Hùng ở tỉnh Sầm Nưa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cách mạng Lào và Việt Nam. Các khu căn cứ Lào - Việt "dựa lưng", che chắn cho nhau, đoàn kết kháng chiến chống thực dân Pháp. Trước sự phát triển nhanh chóng của phong trào kháng chiến ở tỉnh Sơn La và các địa bàn tỉnh Sầm Nưa đã đẩy giặc Pháp vào thế co cụm phòng thủ, mở ra điều kiện mới để cách mạng hai nước tiến tới mở rộng vùng giải phóng.
Tháng 9/1952, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và dân các dân tộc trong tỉnh đã hăng hái tham gia chuẩn bị chiến trường, đẩy mạnh hoạt động phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực tiêu diệt địch, tổ chức tốt công tác vận tải và tiếp tế lương thực, thực phẩm cho bộ đội chủ lực, chuẩn bị lực lượng để tiếp quản vùng giải phóng, những việc phải làm ngay sau khi giải phóng.
Chiến dịch Tây Bắc kết thúc, ngày 22/11/1952, tỉnh Sơn La cơ bản được giải phóng. Tháng 8/1953, chiến dịch Thượng Lào thắng lợi, thực dân Pháp buộc phải rút khỏi Nà Sản, Sơn La hoàn toàn được giải phóng.
Sau ngày giải phóng, công tác củng cố chính quyền, tuyên truyền, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, xây dựng đời sống mới; đóng góp sức người, sức của phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ được đẩy mạnh. Mặc dù âm mưu, nhất là hành động phá hoại của tàn quân phỉ diễn biến phức tạp, nhưng nhân dân các dân tộc không nao núng, không ngại hy sinh, gian khổ, ngày đêm băng rừng, trèo đèo cao, vượt suối sâu để vận chuyển lương thực, đạn dược cho bộ đội, góp phần vào công tác chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ. Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu vô cùng gian nan và anh dũng, ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Tỉnh Sơn La đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là hậu phương trực tiếp của chiến dịch quyết chiến chiến lược, góp phần làm niên chiến thắng "Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Riêng về lương thực, thực phẩm, tỉnh Sơn La đã đóng góp 3.607 tấn gạo (vượt chỉ tiêu 52 tấn), thịt các loại trên 144 tấn (vượt chỉ tiêu 84 tấn), mỡ gần 3 tấn (vượt 2,5 tấn); rau các loại 140 tấn1. Riêng huyện Thuận Châu, huyện tiếp giáp với mặt trận Điện Biên Phủ, đồng bào đã huy động được 950 tấn gạo, 61 tấn thịt, 37 tấn rau các loại.
Những thành tích xuất sắc của Đảng bộ, quân và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã được Đảng, Nhà nước, tặng nhiều phần thưởng cao quý. Tính đến nay, toàn tỉnh đã có 20 tập thể, 6 cá nhân được Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Khu căn cứ cách mạng Lao Khô được Nhà nước quy hoạch, xây dựng, xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Sơn La góp phần thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất nước nhà (1954 - 1975)
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi". Tuy nhiên, theo Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam vẫn đang chìm dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai.
Ngay sau khi được giải phóng, nhân dân các dân tộc ở các châu dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bác Hồ, Khu tự trị Thái - Mèo đã bắt tay ngay vào khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, hoàn thành khẩu hiệu "người cày có ruộng". Nhân dịp kỷ niệm 05 năm ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/1959) Bác Hồ và đoàn công tác Trung ương lên thăm Tây Bắc, tại Thuận Châu thủ phủ của Khu tự trị Thái Mèo, Bác Hồ nói chuyện với nhân dân các dân tộc Tây Bắc: "Từ khi hòa bình lập lại, đồng bào các dân tộc, bộ đội và cán bộ lại càng đoàn kết chặt chẽ, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, cải thiện đời sống, giữ gìn an ninh trật tự. Đảng và Chính phủ rất vui lòng trước những thành tích đó"1. Dù thời gian chuyến thăm Sơn La, Tây Bắc không nhiều nhưng hình ảnh, những lời dạy bảo của Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đem ánh sáng và sức mạnh thúc giục mọi người tiến lên không ngừng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng CNXH (1954 - 1965), Sơn La đã có một bước tiến dài. Từ một nền kinh tế nông nghiệp phân tán, rất nghèo nàn lạc hậu, đã trở thành một địa phương có nền kinh tế bước đầu phát triển. Mạng lưới giao thông vận tải; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp như cơ khí, điện, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, in ấn…Với chủ trương điều chỉnh nhân lực miền xuôi lên miền núi phát triển kinh tế, bảo vệ Tổ quốc. Tỉnh Sơn La đã đón hàng chục vạn lao động của các tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, Hà Tây...lên xây dựng vùng kinh tế mới, do đó hệ thống nông, lâm trường bắt đầu hình thành, phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy nhỏ bé, nhưng đã tạo ra những tiền đề và làm thay đổi nhiều mặt kinh tế - xã hội ở địa phương, cơ sở. Đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa, giáo dục đều có bước tiến quan trọng. Sự nghiệp giáo dục phát triển nhanh, hàng ngàn giáo viên miền xuôi tình nguyện lên Sơn La xây dựng văn hoá - giáo dục miền núi; hệ thống Trường Thanh thiếu niên dân tộc được hình thành. Hầu hết các xã có trường cấp I, trường cấp II và một số huyện có trường cấp III, chữ Thái được cải tiến, bộ chữ Mông ra đời, các trường nghiệp vụ và kỹ thuật được hình thành. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm, hầu hết các xã có trạm xá, túi thuốc và cán bộ y tế hướng dẫn nhân dân thực hiện phong trào vệ sinh phòng bệnh. Sơn La góp phần cùng với các tỉnh miền Bắc trở thành chỗ dựa vững chắc về vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh giải phóng thống nhất đất nước của đồng bào miền Nam ruột thịt.
Cuối năm 1964 đầu năm 1965 chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ bị phá sản về căn bản; Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", một hình thức cao của chiến tranh thực dân kiểu mới, đưa quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam. Ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ gây ra sự kiện "vịnh Bắc Bộ" tạo cớ để leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tháng 02/1965, đế quốc Mỹ chính thức tiến hành cuộc chiến tranh bắn phá lần thứ nhất miền Bắc. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 5/1965, Đảng bộ tỉnh ra Nghị quyết chuyển công tác từ thời bình sang thời chiến, vừa xây dựng, vừa sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Ngày 14/6/1965, không quân Mỹ đã đánh phá dữ dội trung tâm kinh tế Mộc Châu, mở đầu cuộc đánh phá có tính chất huỷ diệt đối với Sơn La. Từ năm 1965 đến 1968 và năm 1972, đế quốc Mỹ đã huy động gần 6.000 lần tốp máy bay đánh phá trên các địa bàn, trọng điểm bị đánh phá như cầu Tà Vài, cầu Chiềng Đông (Yên Châu), cầu Nà Hay (Thuận Châu); trung tâm hành chính ở thị xã và các thị trấn; các cơ sở bệnh viện, trường học đều là mục tiêu đánh phá. Đồng thời đế quốc Mỹ tăng cường triển khai chiến tranh tâm lý, tung gián điệp, biệt kích, kích động các phần tử phản động địa phương phao tin đồn nhảm, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước… nhằm gây mất ổn định chính trị ở vùng biên giới phía Tây Bắc.

Với ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy, quân và dân đã tổ chức chiến đấu sáng tạo, anh dũng, giành thắng lợi ngay từ trận đầu. Ngày 14/6/1965, quân và dân Sơn La đã bắn cháy, rơi trên địa bàn huyện Mộc Châu 02 máy bay giặc Mỹ, liên tiếp trong các ngày 20, 22, 26/6/1965 bắn cháy 7 chiếc máy bay Mỹ. Trong năm 1965, bộ đội cao xạ địa phương và dân quân tự vệ đã bắn rơi 54 máy bay giặc Mỹ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ luân lưu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho quân và dân các dân tộc Sơn La.
Mặc dù chiến tranh diễn ra hết sức ác liệt, nhưng nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, vừa chủ động chiến đấu, phục vụ chiến đấu vừa đẩy mạnh sản xuất với tinh thần: "Tất cả vì miền Nam ruột thịt" Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La đã góp phần chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam kháng chiến chống Mỹ xâm lược với tinh thần: Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Từ năm 1965 đến năm 1974, toàn tỉnh đã tiễn đưa 10.949 thanh niên nhập ngũ, chiếm 38% tổng số nam nữ thanh niên, chiếm 2,7% dân số trong tỉnh (so với dân số năm 1974); lực lượng dân quân tự vệ phát triển, chiếm 13% so với dân số; lập thành tích bắn rơi 76 máy bay giặc Mỹ, bắt gọn 60 vụ biệt kích, thám báo. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Quốc tế đối với cách mạng Lào.
Ghi nhận công lao to lớn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Nhà nước đã tặng Đảng bộ, quân, nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La những phần thường cao quý, trong đó 9 đơn vị, 5 cá nhân được Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; 04 cá nhân, 04 tập thể được Nhà nước phong tặng danh hiệu: Anh hùng Lao động. Đảng và Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tặng Huân chương Tự do - Huân chương cao quí nhất cho Đảng bộ, quân và dân tỉnh Sơn La.
(Còn nữa)
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!