Báo Sơn La điện tử - Tin tức cập nhật trong ngày

Trang chủ

Giữ vững tình anh em Kinh - Thượng trước âm mưu chia rẽ - Bài 1: Gắn bó cội nguồn - đoàn kết giữ nước

Giữa đại ngàn Tây Nguyên, nơi tiếng cồng chiêng ngân vang như linh hồn của đất, có một sợi dây vô hình mà bền chặt - nối liền tình anh em Kinh - Thượng.

Đó là tình cảm đẹp đẽ, tự nhiên như những đóa hoa rừng. Thế nhưng, những điều tưởng như chân lý - như mái nhà Rông sừng sững giữa núi rừng, lại đang bị xói mòn bởi những "làn gió độc". Có những kẻ, chưa từng đặt chân đến mảnh đất thiêng này, lại cố tình gieo rắc hoài nghi, khơi dậy oán hận. Họ đâu biết rằng, tình cảm ấy không phải điều bày biện, mà là hồn cốt, được vun đắp bằng máu, bằng mồ hôi và niềm tin trao gửi qua bao thế hệ, đã bén rễ sâu trong lòng đất nước.

Tôi có những năm tháng được sống, làm việc tại mảnh đất Tây Nguyên, nơi đất đỏ lấm gót giày, bếp lửa cháy suốt mùa mưa không chỉ để sưởi ấm, mà để giữ gìn một thứ "lửa" khác: Tình người.

Có những đêm được ngồi bên ché rượu cần, nghe già làng kể chuyện xưa, bằng chất giọng trầm đục, những câu chuyện lịch sử được giữ gìn không bằng sách vở, mà bằng ký ức về những năm tháng người Kinh và người Thượng đã kề vai vượt qua đói khát, chiến tranh và mất mát. Trong khoảnh khắc ấy, không còn thấy ranh giới nào giữa “người miền xuôi” và “người miền ngược”.

Tôi bắt đầu tự hỏi: Vì sao người Kinh và người Thượng khác tiếng nói, khác phong tục lại có thể sống đan xen, nương tựa nhau tự nhiên đến vậy? Câu trả lời không nằm ở một sự kiện đơn lẻ, mà là dòng chảy suốt chiều dài lịch sử. 

Giữ vững tình anh em Kinh - Thượng trước âm mưu chia rẽ - Bài 1: Gắn bó cội nguồn - đoàn kết giữ nước
Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc vùng Tây Nguyên lần thứ I, tháng 11-2023. Ảnh minh họa: baochinhphu.vn

 

Từ thuở nước nhà còn sơ khai, người Kinh và người Thượng là đồng minh tự nhiên nơi biên cương giữ đất. Trải qua các triều đại phong kiến, từ Lý - Trần - Lê đến Nguyễn, bóng dáng người Thượng luôn âm thầm hiện diện nơi tuyến rừng núi biên cương. Thế kỷ XIII, khi quân Nguyên - Mông tràn xuống từ phương Bắc, nhà Trần đã dựa vào thế núi hiểm trở, rừng sâu và sức người bản địa để làm lá chắn tự nhiên. Tây Nguyên khi đó là địa bàn bất khả xâm phạm, nơi các nhóm cư dân Thượng, từ Bahnar đến Mnông trở thành mắt xích bảo vệ biên viễn, giữ cho hậu phương an toàn.

Các ghi chép trong “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng cho thấy, trong những thời kỳ loạn lạc, vùng rừng núi là nơi đóng quân, tích trữ lương thực và cất giấu vũ khí, trong đó người dân tộc thiểu số đóng vai trò dẫn đường và che chở quan quân triều đình. Đặc biệt, phong trào Tây Sơn khởi phát ở vùng Tây Sơn, Bình Định, nhưng ngay từ giai đoạn đầu, các thủ lĩnh đã mở rộng lực lượng lên phía Tây Nguyên để xây dựng hậu cứ và liên minh với các tộc người bản địa. Nguyễn Nhạc, thủ lĩnh Tây Sơn đã kết duyên với con gái một tộc trưởng Bahnar, tạo dựng lòng tin và sự ủng hộ từ các buôn làng. Người Bahnar, H’re, Ê Đê không chỉ góp sức vận chuyển lương thực, gùi muối, đạn, mà còn trực tiếp tham gia nghĩa quân. Trong các chiến thắng lớn như Rạch Gầm - Xoài Mút hay Kỷ Dậu 1789, dấu ấn người Thượng vẫn hiện hữu qua những bàn tay thầm lặng trong rừng già, người gùi lương, giữ đường, tiếp ứng.

Từ khi có Đảng, mối quan hệ ấy được nâng lên thành ý thức chính trị, trở thành một bộ phận cốt lõi trong công cuộc giải phóng dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Tây Nguyên không chỉ là địa bàn chiến lược, mà còn là không gian của sự gắn kết máu thịt giữa các dân tộc anh em.

Khởi nghĩa Ba Tơ (1945) là minh chứng điển hình cho sức mạnh đoàn kết dân tộc. Từ 28 chiến sĩ người Kinh ban đầu, phong trào nhanh chóng lan rộng nhờ sự hưởng ứng mạnh mẽ của đồng bào H’rê, Cor, Ca Dong... Họ không chỉ tiếp ứng, mà trực tiếp cầm súng chiến đấu, lập chính quyền cách mạng giữa đại ngàn.

Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi ghi lại rõ: Thành công của khởi nghĩa không thể thiếu vai trò quyết định của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các già làng, những người đã vận động thanh niên vào lực lượng cách mạng và trở thành chỗ dựa tinh thần cho toàn phong trào.

Năm 1946, khi kháng chiến chống thực dân Pháp lan rộng, cái tên Anh hùng Núp, người Bahnar trở thành biểu tượng sáng ngời của cách mạng vùng cao. Không chỉ là “người dân tộc thiểu số tham gia kháng chiến”, ông là người đưa ánh sáng của Đảng về buôn làng, biến rừng thành căn cứ, biến làng Stơr thành pháo đài. Tại đó, bộ đội người Kinh và dân quân người Thượng sống chết có nhau, không còn vùng cao hay vùng thấp, chỉ còn "ta" với "giặc" và lá cờ đỏ sao vàng làm điểm tụ.

Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến đường Trường Sơn huyền thoại không thể hình thành nếu không có sự chung vai của hàng vạn dân công hỏa tuyến; trong đó, người Gia Rai, Ê Đê, Xơ Đăng, H’Mông... là lực lượng chủ lực gùi gạo, tải đạn, mở đường. Những bản làng trở thành nơi trú quân, những già làng trở thành "cột mốc sống", người dân tộc thiểu số trở thành "mắt xích" không thể thiếu trong mạng lưới hậu cần kháng chiến.

Các tư liệu lịch sử về Bộ đội Trường Sơn cho thấy: Gần 60% dân công hỏa tuyến thuộc các dân tộc thiểu số miền Trung và Tây Nguyên, họ đóng vai trò không thể thay thế trong việc dẫn đường, bắc cầu, vận chuyển vũ khí và bảo vệ hành lang chiến lược. Đảng không chỉ kêu gọi sự đoàn kết, mà thực sự đặt niềm tin, giao nhiệm vụ và trao quyền chủ động cho chính đồng bào dân tộc thiểu số. Đó là một bước chuyển lớn về tư duy: Từ cộng cư sang cộng mệnh.

Đặc biệt, trong Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, chiến dịch mở màn cho đại thắng mùa Xuân lịch sử, sự phối hợp giữa bộ đội chủ lực và lực lượng địa phương đã tạo nên một đòn đánh chiến lược mang tính quyết định. Trận then chốt tại Buôn Ma Thuột, cùng các mũi tiến công tại Pleiku, Kon Tum chỉ thành công khi có sự tham gia chủ động của đồng bào các dân tộc Thượng, từ việc dẫn đường, vận chuyển hậu cần, đến việc giữ chốt và bảo vệ hành lang chiến dịch. Chiến thắng Tây Nguyên không chỉ phá vỡ thế phòng ngự chiến lược của địch, mà còn một lần nữa khẳng định sức mạnh dân tộc khi được thống nhất dưới ngọn cờ của Đảng là sức mạnh không gì cản nổi.

Sau năm 1975, khi đất nước liền một dải, người Kinh lên Tây Nguyên dựng trường, mở trạm; người Thượng giữ rẫy, giữ rừng. Có va chạm, có khác biệt, nhưng chưa từng có hằn thù. Những bữa cơm chung có nước mắm và măng rừng. Đứa trẻ nói tiếng Việt chưa sõi, nhưng hát Quốc ca tròn vành, còn bác sĩ miền xuôi cúi đầu chào già làng bằng tiếng bản địa thể hiện lòng tôn kính.

Không cần khẩu hiệu, những hình ảnh ấy chính là biểu tượng lặng thầm cho tình anh em Kinh - Thượng, được gìn giữ bằng đời sống, bằng sự sẻ chia giản dị giữa con người với con người.

(Còn nữa)

Theo QĐND
BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới

  • 'Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Sơn La lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2025-2030

    Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Sơn La lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2025-2030

    Thời sự - Chính trị -
    Sáng nay, ngày 25/12, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh đã diễn ra phiên chính thức Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Sơn La lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2025-2030. Dự và chỉ đạo đại hội có các đồng chí: Nguyễn Thị Minh Hương, Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; Chá A Của, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh.
  • 'Chủ động phòng, chống cháy rừng mùa hanh khô

    Chủ động phòng, chống cháy rừng mùa hanh khô

    Xã hội -
    Tỉnh ta có trên 590.000 ha rừng tự nhiên và gần 80.000 ha rừng trồng đã thành rừng; tỷ lệ che phủ rừng đạt 47,6%. Bước vào cao điểm mùa khô hanh, nguy cơ cháy rừng tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, lực lượng kiểm lâm đã chủ động triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, phát huy phương châm “4 tại chỗ”, quyết tâm bảo vệ an toàn diện tích rừng.
  • 'Giáo dục truyền thống lịch sử qua trải nghiệm thực tế

    Giáo dục truyền thống lịch sử qua trải nghiệm thực tế

    Khoa Giáo -
    Đổi mới phương pháp dạy và học môn Lịch sử, các trường học áp dụng “Học từ thực tế”, thông qua hành trình về nguồn, tham quan di tích lịch sử, trải nghiệm thực tế, khơi gợi sự hứng thú của học sinh tìm hiểu về lịch sử, góp phần bồi đắp nhận thức, lý tưởng, lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm cho thế hệ trẻ.
  • 'Thuận Châu quan tâm thực hiện bình đẳng giới

    Thuận Châu quan tâm thực hiện bình đẳng giới

    Sức khỏe -
    Triển khai thực hiện Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”, thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn xã Thuận Châu đã có tác động tích cực đến đời sống, nâng cao nhận thức cho phụ nữ và trẻ em tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
  • 'Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

    Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

    Nông thôn mới -
    Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Sơn La lần thứ XI, nhiệm kỳ 2025-2030, là sự kiện chính trị quan trọng của nông dân trong tỉnh, diễn ra trong không khí thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XVI và hướng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Với phương châm “Đoàn kết, dân chủ, trách nhiệm, đổi mới, phát triển”, Đại hội tập trung kiện toàn, xây dựng tổ chức Hội Nông dân vững mạnh, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, góp phần xây dựng tỉnh Sơn La phát triển nhanh và bền vững.
  • 'Minh bạch, hiệu quả, không để lãng phí tài sản công

    Minh bạch, hiệu quả, không để lãng phí tài sản công

    Xã hội -
    Sau gần 6 tháng thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, tỉnh ta đã hoàn thành rà soát và đưa ra phương án xử lý 114 cơ sở nhà đất dôi dư; đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản công theo quy định, bảo đảm minh bạch, không để xảy ra thất thoát tài sản công.
  • 'Thủy điện - thúc đẩy tăng trưởng

    Thủy điện - thúc đẩy tăng trưởng

    Kinh tế -
    Tỉnh ta hiện có 3 thủy điện lớn, gồm: Thủy điện Sơn La, Huội Quảng, Nậm Chiến và 57 nhà máy thủy điện nhỏ hoạt động, với tổng công suất 3.794 MW, sản lượng điện sản xuất khoảng 12-15 tỷ kWh/năm. Các nhà máy thủy điện đóng góp từ 40-50% số thu ngân sách trên địa bàn tỉnh, góp phần vào tăng trưởng kinh tế năm 2025 của tỉnh đạt 8,03% và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
  • 'Những gương mặt vàng của thể thao Quân đội

    Những gương mặt vàng của thể thao Quân đội

    Thể thao -
    Tại SEA Games 33, Đoàn thể thao Việt Nam giành 87 huy chương vàng, 81 huy chương bạc, 110 huy chương đồng, đứng thứ ba chung cuộc. Góp một phần công sức vào kết quả trên là những gương mặt vàng của thể thao Quân đội đến từ môn vật, bơi, điền kinh, karate, bắn súng...
  • 'Ấn định 14 đơn vị bầu cử đại biểu HĐND tỉnh khóa XVI

    Ấn định 14 đơn vị bầu cử đại biểu HĐND tỉnh khóa XVI

    INFOGRAPHIC -
    Ngày 16/12/2025, đồng chí Nguyễn Đình Việt - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, Chủ tịch Ủy ban Bầu cử tỉnh đã ký ban hành Nghị quyết số 15/NQ-UBBC về việc ấn định số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu HĐND tỉnh Sơn La khóa XVI, nhiệm kỳ 2026-2031 được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử. Theo Nghị quyết, tỉnh Sơn La có 14 đơn vị bầu cử đại biểu HĐND tỉnh, tổng số đại biểu HĐND tỉnh được bầu là 55 đại biểu. Danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu HĐND tỉnh được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử khóa XVI, nhiệm kỳ 2026-2031, như sau: