Báo Sơn La điện tử - Tin tức cập nhật trong ngày

Trang chủ

Truyện ngắn: NHỚ NGÀY NHẬP NGŨ

Chẳng biết anh Tô Hào, ở gần cây nhãn tổ phố Hiến hay sao, mà người có nước da trắng hồng như múi nhãn vừa bóc ra. Còn đôi mắt thì đen lánh như hột nhãn, nhìn rất duyên.

Mười tám tuổi, anh học xong cấp ba trường huyện. Mê nghề dạy học, mê văn chương, mê những câu thơ về chinh chiến và yêu nước, như “Giải phóng Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu, “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng, họ đều là cầm súng cầm bút, là người trong cuộc viết thơ bằng gan ruột của chính mình: “Điện Biên vời vợi nghìn trùng/Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta/Đêm nay bè bạn gần xa/Tin về chắc cùng chan hòa vui chung”…

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là anh thích nhất:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây, súng ngửi trời/ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”…

Những câu thơ ấy đã nằm lòng bao tháng năm, có dịp các câu thơ ấy ngân lên như dây đàn chỉ gần gặp gió và rung nhẹ, làm anh say đắm. Khi tốt nghiệp trung học phổ thông, cả xã còn có ba người, hồi đó học xong cấp ba là coi như có cần câu cơm. Không sang Tây du học như Nga, Trung Quốc… thì đi đại học, trung cấp trong nước. Nhưng các bạn anh đều đi bộ đội. Anh đang băn khoăn giữa đi bộ đội và đi học sư phạm, thì có giấy báo theo học nghề. Trong dòng máu của Tô Hào đã nhuốm màu chữ nghĩa, của ông nội và cha làm thầy đồ. Tô Hào xin đi học trường sư phạm trung học tỉnh Hưng Yên. Thời gian như thác đổ, hai năm sư phạm trôi nhanh. Hồi chiến tranh mọi việc đầu gấp gáp, thời gian học được cấp trên rút ngắn. Tiền tuyến đang dốc sức đánh giặc, hậu phương dốc sức sản xuất tăng gia, miền núi dốc sức xóa nạn mù chữ và dạy chữ cho đồng bào… Tô Hào được phân công lên dạy học tại vùng biên Sông Mã, tỉnh Sơn La.

Còn nhớ ra giêng năm 1957, sau tết rết Nàng Bân, bố anh hạ chiếc xe đạp hiệu Peugeo màu đỏ của Pháp xuống. Trên đờ bu, gắn chiếc đèn tròn rất xinh, bánh trước gắn bình điện, trời tối phải bật đèn. Trên khung xe gắn biển ba con số: X568, hàng xóm thường khen là “số tiến”. Xe đạp này là của gia bảo, bố anh chẳng mấy khi dùng, ngày thường lau chùi cẩn thận, treo trên xà ngang bằng hai sợi dây thừng…

Thấy bố dắt xe ra, Tô Hào hỏi:

- Bố cưỡi xe đạp đi đâu?

- Chở con trai nhập trường sư phạm chớ còn đi đâu.

Hôm nay là ngày đại sự, bố mới lấy xe chở Tô Hào đi. Mà bố anh tự lái lấy, vừa quý con, vừa chẳng tin ai khi trao của gia bảo cho người khác. Dù không xa, bố vẫn chở anh đến thị xã Hưng Yên nhập trường làm tân sinh viên sư phạm. Chắc bố phấn chấn trong lòng mới phá lệ, ngày thường, Tô Hào vẫn cuốc bộ khắp nơi.

Thời gian như gió thổi, chẳng mấy chốc Tô Hào đã cầm mảnh bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm trong tay. Hồi đó vùng cao rất thiếu giáo viên, Tô Hào được cử lên Tây Bắc dạy học. Vinh dự nhất, đến bây giờ anh vẫn còn như mơ, là những người lên Tây Bắc dạy học được Bác Hồ đến trực tiếp động viên, dặn dò. Đó là mùa xuân năm 1959. Thấm nhuần và khắc ghi lời dạy của Bác trong tim: “Các cô, các chú đã xung phong thì phải xung phong đến nơi, đến chốn”. Niên khóa 1959 - 1960, có trên 860 giáo viên trẻ ở nhiều tỉnh đồng bằng, trung du tình nguyện lên đường với quyết tâm góp phần đưa ánh sáng văn hóa đến với các tỉnh vùng cao. Trong đó có 137 thầy, cô giáo đã đến với các bản, làng của tỉnh Sơn La.

Tô Hào nhớ mãi tại hội trường Hữu nghị Chính phủ, hơn 860 giáo viên trẻ nghe Bác Hồ căn dặn như nuốt từng lời. Dù chỉ thời gian ngắn ngủi khoảng 10 phút, mà để lại nhiều bài học quý giá. Bác Hồ dặn dò các cô, chú lên miền núi dù gian khổ nhưng phải quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trao cho…

*

Chiều tối. Sau bốn ngày được xe ô tô đầu Zin đít Ca, loại xe Zin ba cầu của Liên Xô. Được cải tiến thành xe ca, vận chuyển hành khách chở đến vùng đất biên viễn giáp Lào. Một dãy phố đơn sơ có cơ quan, cửa hiệu, quán phở… lợp gianh, khác với những ngôi nhà sàn dựng bên bờ sông. Tô Hào tìm đến dãy nhà có biển đỏ treo trước cửa: “Phòng Giáo dục Sông Mã”. Cơ quan giáo dục là dãy nhà lợp ranh năm gian, nếu không nhìn thấy lá cờ đỏ treo cao trong gió thu thì Tô Hào không biết là công sở. Ngôi nhà ngợp trong lá xanh, có hàng rào gỗ bao quanh, cửa sổ mộc không sơn, cửa chính ván gỗ vênh vao. Trước sân cỏ xanh mướt, có một người mặt vuông chữ điền, mặc áo bộ đội sờn vai, túi ngực cài bút máy. Và một người áo chàm xanh rêu, lưng đeo xà cột, hai tay vòng sau lưng như đang chờ ai. Chợt thấy Tô Hào bước xuống xe, cả hai vồ vập như đón người thân, đều reo vang làm con chim cu gần đấy cất cánh bay lên hướng núi:

- Ui xe khách đã đến huyện rồi.

Tô Hào lưng cồng kềnh ba lô, mặt lấm bụi đường bước đến thưa:

- Tắc đường cửa khẩu tiểu ngạch Chiềng Khương các anh à.

Người áo chàm xanh rêu thật thà:

- Cung đường này nguy hiểm lắm. Tắc đường, sập núi như cơm bữa.

- Nghĩ một lát, chắc anh thận trọng, hạ giọng: Đặc biệt còn gặp biệt kích. Có chuyến nằm đường cả tuần trời, phải vào bản xin xôi.

Người áo bộ đội bạc màu xởi lởi, chẳng để cho Tô Hào trả lời, anh ta vừa nói vừa gỡ ba lô trên vai và bắt tay Tô Hào:

- Vào đến vùng biên là quý rồi. Ui, thầy giáo Tô Hào “khẳn trai” (đẹp trai) quá. Đây là anh Lò Muôn, Trưởng phòng. Anh ta chỉ người áo chàm xanh rêu lưng đeo xà cột màu cứt ngựa. Còn anh là Lê Liêm làm tổ chức. -  Anh cười khì khì, đập vào ngực mình, chẳng lấy gì nở nang: Gọi là làm tổ chức, nhưng anh là con dao pha, việc gì cũng làm được. Sợ Tô Hào chưa hiểu miền núi, anh cười:  Vùng cao là vậy đấy thầy à.

Thấy cảnh tiếp khách ân cần và gần gũi, Tô Hào mở ba lô đưa tờ giấy tờ nhận việc cho anh Lê Liêm, nói:

- Em được cấp trên cử đến huyện Sông Mã dạy học. Mong hai anh giúp đỡ.

- Phòng đã nhận được công văn của Ty Giáo dục Sơn La, biết thầy Tô Hào được cử vào đây. Tuần qua, nghe đài Hà Nội nói mà anh vui như muốn khóc. Xấp giáo viên miền xuôi và trung du lên Tây Bắc thắp sáng ngọn lửa văn hóa cho vùng cao, vinh dự được Bác Hồ đến động viên, dạy bảo trước lúc lên đường. Ai ngờ trong đó có thầy giáo Tô Hào đây. - Anh Lê Liêm nhìn Tô Hào từ đầu đến chân thán phục. Lát sau anh tiếp trong giọng còn chưa hết bồi hồi:

- Còn việc phân công, công tác phòng đã họp bàn từ trước. Giờ thầy nghỉ ngơi rửa mặt, ăn cơm. Đây đi theo anh. - Nói rồi anh Lê Liêm dẫn Tô Hào đến phòng khách và chỉ con suối sau nhà rửa mặt. Anh Lê Liêm, còn dặn nhỏ, rất thân tình:

- Vùng cao vất vả lắm thầy Hào ơi.

- Vâng, vâng, không sao đâu anh. - Tô Hào bước xuống suối, vin gốc cây lần theo, thi thoảng có phiến đá lát đường. Đã thấy anh Lê Liêm cũng đang rửa măng, quay mặt lên, nơi có tiếng nước chảy róc rách, ân cần “Suối nước gần cận đây chỉ vài chục bước chân thôi, nhưng bờ suối hơi cao, cẩn thận đấy. - Anh ta dặn tiếp.

- Thầy Tô Hào tắm xong thì vào bếp ăn cơm nhé.

- Vâng, chỉ một lát là xong thôi anh ơi. - Tô Hào thưa. Lát sau Tô Hào từ suối lên. Anh lom khom bước vào nhà bếp vì gian bếp khá thấp, trước cửa lòa xòa vài lá đu đủ lá to, quả rất nhiều. Ngước đầu lên đã thấy anh Lò Muôn và anh Lê Liêm đang ngồi trên sạp nứa mỏng mảnh đung đưa. Có một cô gái trẻ mặt thon lá trầu, mình eo, lưng ong bê lên một mâm cơm. Và cô kê ghế mây ngồi cạnh đấy, anh Lò Muôn giới thiệu: “Cô Lò Tươi, văn thư”. Cô Lò Tươi mở lồng bàn. Đã nghe nghe mùi xôi nếp, mùi lá chanh, mùi gừng tỏi, có món gì thơm thế. Ngọn điện 70 mươi oát trên xà nhà thiếu sáng mờ mờ, cùng với ánh sáng bên bếp lửa liu riu. Soi rõ nét mặt khá tươi của những người trong mâm cơm. Bốn ngày đi đường ăn uống loa qua, bụng Tô Hào giờ đang reo sôi như giục giã, thì anh Lò Muôn nét mặt cảm động mở đầu bữa cơm. Sau này Tô Hào mới biết, người Thái hiếu khách, khi mời mọc, giao tiếp đồng bào có hẳn một bài hẳn hoi:

- Thầy Tô Hào à, con người ta như cánh chim, thầy đã trèo khe lội đèo, mấy trăm cây số, “vượt đèo lau, leo núi yến” từ miền Phố Hiến đến vùng cao. Tối nay phòng giáo dục được đón thầy giáo Hưng Yên quý hóa như vàng. Mà Tô Hào ơi, thầy là sứ giả đầu tiên trong ngành giáo dục lên Sông Mã gieo chữ cho bà con. Bữa cơm đón khách quý nhưng huyện nghèo, chỉ có măng rau. Mời thầy Tô Hào, anh Lê Liêm và cô Lò Tươi, ta uống chén rượu nhạt ớ.

Tô Hào xúc động đi nhận việc, ai ngờ coi mình như quý nhân, anh chẳng biết nói gì chỉ chắp tay trước ngực, vâng dạ rối rít:

- Vâng, vâng… vâng, vâng!

Tô Hào ngồi vào mâm, anh hơi ngạc nhiên. Chẳng thấy nồi cơm đâu, chết cha rồi, mời anh ăn cơm mà chẳng thấy nồi cơn đâu, bụng mình đang lép như ve sầu. Trên mâm chỉ hai hộp đan bằng mây có nắp bốc mùi thơm. Lại có hai đĩa măng to để nguyên cả vỏ, còn xanh và ngọn măng chìa ra vài lá măng còn tươi lá. Một bát canh măng nấu với thịt gà ri. Một bát màu đỏ vì ớt và xanh vì lá tỏi mùi rất đặc trưng, thơm mùi lá chanh, gừng, tỏi. Anh Lê Liêm chỉ tay nói nhỏ “món chấm chéo”. À mùi lá chanh thơm mình nghĩ là gia vị thịt gà đây. Nhìn “cụ” 70 ml, rượu mạnh trong veo, anh Lê Liêm trịnh trọng rót rượu sủi tăm cá, ra 6 chén sứ loại hạt mít và nói:

- Bữa nay có khách quý dưới xuôi lên phải có hai chén thờ. - Nói rồi anh đưa hai chén rượu đầy đặt phía trước mặt Tô Hào, hàm ý coi Tô Hào là khách quý. Ngay đấy anh Lê Liêm mở giỏ đan bằng mây, trong đó đựng đầy xôi dẻo và thơm nức. Tô Hào chưa hết ngạc nhiên thì ông Lò Muôn giới thiệu tiếp từng món:

Bát cánh măng nấu thịt gà ri là đặc sản của vùng cao, măng nấu gà nhỏ mới tuyệt hảo thầy à. Còn đây là món “chẩu mâm”. Tiếng Thái nói “chủ mâm”, món “chẩm chéo”. Miền núi bữa cơm không thể thể thiếu món này. Chủ công là ớt, tỏi, mắc khén làm gia vị. Ăn ớt, mắc khén chống cảm cúm, sốt rét, thầy Tô Hào ơi.

Sau hai chén rượu khai vị, miền núi có câu người đi hai chân, người uống hai chén, như thế mới mạnh khỏe hanh thông. Anh Lê Liêm cất lời:

- Người Thái có câu uống rượu không bàn việc ruộng nương, nhưng ta đổi mới. Xin phép anh Lò Muôn ta bàn việc luôn để anh em ta uống rượu, cơm nước xong còn nghỉ ngơi, sáng mai thầy Tô Hào còn đến trường mới nhận công tác.

Mọi người trong mâm đều vui vẻ đồng ý gật đầu.

- Công việc của anh, anh cứ làm thôi. – Anh Lò Muôn đưa mắt nhìn Lê Liêm.

Được mở đường cho chim én bay, Lê Liêm nhìn Tô Hào nói:

- Ban lãnh đạo đã họp bàn, cử thầy Tô Hào đến công tác tại xã Chiềng Phung.

- Trường Chiềng Phung ở đâu anh?

- Gần thôi, thanh niên đi nhanh quá trưa là tới.

Thấy Tô Hào thoáng trầm ngâm, chẳng nói gì, anh Lê Liêm tiếp:

- Nói gần là chỉ cánh đây hơn ba mươi cây số thôi. Có nhiều xã còn cách đấy gần trăm cây số thầy à. Miền núi là như thế.

- Vâng, em không ngại xa xôi gì đâu các anh ơi.

Tô Hào vừa nói xong, anh Lò Muôn nhấc chén nói:

- Ta uống chén rượu đoàn kết, chúc thầy Tô Hào ngày mai chân cứng đã mềm ớ: - Nói rồi cả mâm, kể cả cô Lò Tươi, mặt thon lá trầu, đều nâng chén uống cạn. 

Anh Lê Liêm khà một cái khen rượu ngon rồi nói tiếp:

- Vùng cao, dân ta mù chữ khá nhiều. Trên trường có ba giáo viên, một cô giáo dạy lớp một, một cô dạy lớp hai, một thầy dạy lớp ba. Tăng cường thêm thầy Tô Hào lên đó là bốn, thầy sẽ chiêu sinh mở lớp mới. Nhưng đợt tuyển quân tới đây một thầy giáo Chiềng Phung sẽ nhập ngũ. Vậy trường vẫn có ba giáo viên như cũ thôi.

Tô Hào giật mình hỏi:

- Tưởng đã có học sinh rồi, ai ngờ… Mà em dạy lớp mấy?

Lê Liêm phân trần:

- Không mà, có thầy mới có trò, mới chiêu sinh, ở đây đều làm như thế cả. À Tô Hào chiêu sinh mở lớp xóa mù chữ. Lớp mấy ư. Lớp a, bờ, cờ… thầy biết lớp gì không. – Anh Lê Liêm cười.

Tô Hào chưa kịp trả lời thì ông Lò Muôn nói rất nghiêm:

- Phòng giáo dục cử đồng chí Tô Hào kê chức quản lý trường luôn. – Anh Lò Muôn đổi ngôi thành “đồng chí”.

Tô Hào người nóng ran như cơn sốt rét:

- Ôi, sao cử em kê chức, việc trọng cáng sao được?

Anh Lê Liêm bồi thêm.

- Cứ đi là sẽ tới, trước lạ sau quen, anh đây phục viên rồi làm giáo dục, có học qua trường lớp lãnh đạo đâu. Thực tế dạy cho mà làm theo.

Anh Lò Muôn chốt:

- Trường Chiềng En có ba người, hai người chưa qua đào tạo chính quy, họ được bồi dưỡng, tập huấn một thời gian ngắn, trong những lớp học đơn sơ như gầm sàn, gốc đa, gốc mít. Dân bản đùa là “sư phạm gốc mít”, “sư phạm gốc đa”. Chỉ có đồng chí Tô Hào được học hành bài bản. Nhưng vào cuộc sẽ hăng say, ngày trước anh cũng như thế. Thế mới là đem ánh sáng đồng bằng soi chiếu cho vùng cao như Bác Hồ căn dặn, đồng chí Tô Hào nhé.

Nhớ lại lời dặn dò của Bác Hồ, tại Hà Nội, trước khi lên Tây Bắc: “Các thầy cô lên Tây Bắc dù gian khổ vẫn quyết tâm làm nhiệm vụ”. Tô Hào vui vẻ nhận nhiệm vụ luôn.

Ngay đấy, anh Lò Muôn lấy chai rượu rót ra ba chén vơi vơi, anh cười lấy thêm hai chén rượu thờ, san đầy như mắt cá, trịnh trọng nói:

- Xin phép lấy rượu thờ anh em cùng uống. Mong Tô Hào ngày mai đến trường mới, hoàn thành nhiệm vụ. Mai đến Chiềng Phung lội bộ, ba mươi kilômet đường rừng, sẽ có anh Lê Liêm dẫn đường và bàn giao chức quản lý cho em. Lần sau quen việc, cứ thế mà làm và đi về, em nhé.

Nói rồi Lê Liêm và Lò Muôn đều cười làm Tô Hào cũng bụm miệng cười theo. Không khí bữa rượu đầu tiên của thầy Tô Hào vui như tết. Chẳng mấy chốc, một “cụ” 70 ml đi lúc nào chẳng hay.

*

Tờ mờ sáng hôm sau, khi màn sương còn đặc quánh, dãy nhà của Phòng Giáo dục như bơi trong sương xám, chỉ nghe đàn chim đập cánh và tiếng kêu uể oải đi ăn đêm trở về trên dãy núi xa. Trong buồng, màn sương tràn qua vách liếp làm Tô Hào tỉnh giấc. Cùng lúc anh nghe tiếng chuông đồng hồ tường, kêu bính bong năm tiếng, đã sáng rồi. Tối qua sau chầu rượu mạnh, có măng ngọt đầu mùa, chấm “chẩm chéo” lạ miệng, lại thêm ớt tỏi, mắc khén và xôi nóng, anh được bù đắp năng lượng cho những ngày qua. Anh xin phép ngủ sớm, đánh một hơi ngon lành, lấy sức leo núi tiếp đến trường mới.

 Chờ đúng giờ thìn, nắng đã leo lên trên đỉnh núi trước mặt, sương mù bốc lên từng cuộn như như chõ xôi vừa dỡ ra. Mấy con chim cu lông nâu, mỏ tím gù nhau bên đầu hồi nhà không biết chán. Anh Lê Liêm ngó trời đất, thoáng cười vui lòng vì một ngày đẹp trời sẽ đến. Anh khoác xà cột, cài dép bốn quai, quần áo gọn gàng ra chiều là cán bộ có thâm niên miền núi. Nhìn Tô Hào đã chuẩn bị đồ đoàn khá chỉn chu, anh hỏi:

- Tô Hào còn quên đồ dùng gì không.

- Em đã chuẩn bị đầy đủ rồi.

Vừa nói, Tô Hào lưng cõng ba lô to lên đường, hành trang của anh không thể thiếu chăn màn, sách vở mang theo từ miền xuôi. Ba mươi cây số đường rừng, qua các bản làng cheo leo, Lê Liêm và Tô Hào đến trường Chiềng Phung đã chớm chiều. Ba giáo viên trong trường đều có ý chờ mong và chuẩn bị cơm nước tiếp khách, dù chỉ đơn giản cơm canh. Cuộc gặp mặt “ma cũ”, “ma mới” giữa Tô Hào và giáo viên cũ của trường Chiềng Phung, không ngờ đầm ấm và thân tình như người một gia đình… Lê Liêm giới thiệu Tô Hào với giáo viên. Anh dặn công việc trước, sau và thông báo kê chức quản lý với các thầy cô trong trường... Tối hôm đó, anh Lê Liêm ngủ lại ở trường và sáng sớm hôm sau, anh trở về Phòng Giáo dục.

*

Thời gian đầu “nhập ma” ở trường Chiềng Phung, thầy Tô Hào như đánh vật với công việc. Việc quản lý nhà trường với hai giáo viên là cô Lẻ và thầy Na, họ đều là người dân tộc Thái nhưng khá xa nhà nên đều nghỉ tại nhà trường. Họ dạy học tự giác, thật thà và tin yêu Tô Hào nên anh rất dễ chịu. Việc quản lý nhà trường đối với anh khá êm xuôi. Khó nhất là vùng cao lạc hậu trăm bề, ngôn ngữ, phong tục xa lạ nên nhiều việc anh đều hỏi giáo viên, thậm chí hỏi thêm học sinh, dần anh Tô Hào quen việc và quản lý khá thuận dòng. Ngoài việc quản lý nhà trường, Tô Hào đi vào các bản chiêu sinh, điều tra độ tuổi. Tô Hào đã lên danh sách được ba mươi học viên tham gia đi học xóa mù chữ.

Một tối trong bữa cơm liên hoan cho thầy Na lên đường nhập ngũ. Đủ mặt hội đồng trường, thầy Na đã bàn giao tài liệu và sổ điểm học sinh cho người quản lý. Thầy Tô Hào đứng lên nói:

- Ngày mai thầy Na lên đường nhập ngũ, Tô Hào cũng có việc về Phòng Giáo dục báo cáo và nhận tài liệu mở lớp xóa mù chữ. Một công hai việc, Tô Hào thay mặt nhà trường Chiềng Phung tiễn thầy Na lên đường, chúc thầy hoàn thành nhiệm vụ và trở về với nhà trường ta.

Thầy Na mặt xúc động, cảm ơn Tô Hào và hai cô giáo trong trường.

- Tôi hứa sẽ hoàn thành nhiệm vụ, dù đổ máu không từ nan. Các thầy cô cứ yên tâm.

Tô Hào trao một tiền nhỏ, thầy Na từ chối, thì Tô Hào dúi vào túi ngực cho thầy Na và nói:

- Đây là lương tháng của ba chúng tôi, thầy cầm đi mà uống nước, còn nhớ đến chúng tôi, để mọi người yên tâm.

*

Xuất phát từ mờ sáng hôm sau, mà gần hết giờ buổi sáng, thầy Na và Tô Hào mới về đến Phòng Giáo dục. Gặp ngay hai anh Lê Liêm và Lò Muôn đang làm việc. Anh Lê Liêm nhanh nhẩu như chim én, mở lời luôn:

- Chào anh tân binh Lò Na, chào thầy tân quản lý trường Tô Hào nhé.

Ngồi quanh bàn làm việc bằng gỗ tạp của Lê Liêm, anh Lò Muôn cũng gập sổ tay tạm nghỉ. Chuyện đang vui như ếch gặp mưa rào thì có một người bộ đội đeo hàm hạ sĩ nói với Lò Muôn:

- Anh Trưởng phòng à. Phòng Giáo dục của anh thiếu chỉ tiêu nhập ngũ. Phải có hai người, nhưng hiện nay còn thiếu một đồng chí, phải khẩn trương tuyển đủ. Sáng mai đã giao quân cho Tỉnh đội rồi.

Lò Muôn chợt tái mặt, nhưng giọng vẫn ôn tồn:

- Đồng chí Lò Na giáo viên Chiềng Phung về nhập ngũ đây. Người ngồi trước mặt anh đấy thôi.

 Anh bộ đội vẫn cương quyết:

- Vẫn còn thiếu một chỉ tiêu, đó là đồng chí Vì Một ở bản Mường Lạn bị đau ruột thừa. Chưa đi được, anh phải bổ sung cho kịp mà phải nhanh. Nếu không Trưởng phòng Giáo dục xơi kỷ luật đấy.

Anh Lò Muôn và Lê Liêm đều thần mặt ra, trong phút đó trông các anh già đi mấy tuổi. Luật nghĩa vụ quân sự không đùa, kỷ luật, mất chức. Mà sao cái thằng Vì Một, ở Mường Lạn, cách đây những năm mươi cây số, ai mà kịp đến hỏi nguồn cơn. Không đau lúc nào lại đau vào lúc nhập ngũ, có vấn đề tư tưởng gì không? Phen này Trưởng phòng “nếm đít ong” mất. Còn một ngày tìm đâu ra một tân binh.

Lò Muôn thở dài:

- Giờ thì Trưởng phòng Giáo dục Lò Muôn này chịu chết, nếu bảo lão già bốn mười tuổi tái ngũ thì tôi đành đi thay luôn.

Anh bộ đội đeo hàm hạ sĩ chẳng chịu thua

- Trưởng phòng Giáo dục nói vậy mà nghe được à. Tôi sẽ về báo cáo với cấp trên!

Nói rồi quay gót đế giày nghiến cát nghe răng, người đeo hàm hạ sĩ giận dữ bỏ đi. Nhưng anh ta vừa quay gót thì có người gọi giật lại:

- Đồng chí bộ đội ơi!

- Hỏi làm gì nữa, cạn lời rồi, tôi đang bận.

- Tôi đi thay Vì Một, Mường Lạn được không?

Anh bộ đội đeo hàm hạ sĩ hỏi lại:

- Đồng chí làm ở ngành Giáo dục à?

Lò Muôn, Lê Liêm và Lò Na tỉnh người ra, như vừa được uống cốc nước mát. Quay ra, người vừa nói giọng đầy cương quyết là Tô Hào. Trưởng phòng Giáo dục Lò Muôn nở từng khúc ruột, nói như reo:

- Men tè (đúng) là thầy giáo Tô Hào, giáo viên của trường Chiềng Phung, người của giáo dục chúng tôi đấy, anh bộ đội ơi.

Lò Na cũng không tin vào tai mình nữa. Khi biết chính xác Tô Hào xung phong đi bộ đội thì vồ lấy anh như người đi xa giờ mới gặp nhau rú lên:

- Thế là anh em nhập ngũ một đợt, trước là đồng nghiệp nay lại là đồng đội. Vui quá là vui.

Không khí dịu đi như như trận mưa rào trong chốc lát. Lê Liêm nhanh nhẹn lấy thêm trà pha ấm mới, rót nước chè cho mọi người. Chờ uống hết tuần trà. Lò Muôn dịu giọng nói:

- Hoan hô tinh thần xung phong của thầy giáo Tô Hào. Nhưng xin phép đồng chí bộ đội để chúng tôi trao đổi với thầy giáo Tô Hào và công việc của nhà trường Chiềng Phung. Chúng tôi sẽ báo cáo ngay thôi.

Anh bộ đội mặt tươi hẳn lên gật đầu đồng ý, vừa ra khỏi cửa, thì cuộc họp “nóng” được triển khai ngay. Dưới sự chỉ đạo của Trưởng phòng Giáo dục, hỏi tâm tư nguyện vọng đi bộ đội của Tô Hào, anh đều một mực xung phong nhập ngũ. Anh không quên việc của nhà trường Chiềng Phung và mở lớp xóa mù chữ, báo cáo đầu đuôi. Lò Muôn đập vai Tô Hào nói rất quan trọng:

Việc đánh giặc đã xong, việc giáo dục làm gì mà không giải quyết được. Hậu phương chúng tôi “Một người làm việc bằng hai”, trường Chiềng Phung một cô đứng hai lớp. Các anh Lò Na và Tô Hào yên tâm đi đánh giặc ớ. Ngay đấy, Lò Muôn quay máy điện thoại, nối máy nói với ai đó, giọng rất vui và tự tin:

- Thầy giáo Tô Hào xung phong đi bộ đội, thay cho đồng chí đau ruột thừa Vì Một ở Mường Lạn. Báo cáo hết.

Nói rồi, Lò Muôn cúp máy đánh rộp, đứng lên nhìn mọi người hiền lành như người thân. Lát sau, Lò Muôn thong thả bước ra hiên. Ngoài kia, nắng cuối thu vàng óng như mật ong trải dài trên non cao, cho đến dãy nhà của Phòng Giáo dục có lá cờ đỏ chói. Tán cây gần đấy cũng nhuộm màu vàng, hai con chim cu, mỏ tím, lích tích rủ nhau ngậm lá vàng bay về làm tổ./.

--------------

Ghi chú: Có chi tiết theo lời kể của nhà thơ Lường Tộ

Trần Nguyên Mỹ (CTV)
BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới