Kỷ niệm 130 năm thành lập tỉnh Sơn La là dấu mốc lịch sử của chặng đường lịch sử. Trải qua hơn một thế kỷ đầy biến động, từ thời thuộc địa - nửa phong kiến, hai cuộc kháng chiến trường kỳ đến thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập phát triển. Từ vùng đất biên viễn đầy gian khó, Sơn La hôm nay khoác lên mình diện mạo mới - năng động, đổi mới, giàu bản sắc - trở thành trung tâm phát triển của vùng Tây Bắc, đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Sơn La là vùng đất cổ. Qua kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử…đã chứng minh: từ hàng vạn năm trước đây, vùng đất Sơn La đã có con người sinh sống. Trải qua quá trình lịch sử, dân số và phân bố dân cư không ngừng phát triển. Năm 1931, dân số tỉnh Sơn La có 96.000 người, năm 1960 (sau gần 40 năm), dân số 182.200 người. Trong các thập niên 60, 70, 80 của thế kỷ XX, với chủ trương của Đảng, Nhà nước kêu gọi Nhân dân các tỉnh miền xuôi lên xây dựng kinh tế vùng Tây Bắc, dân số của tỉnh có sự gia tăng đáng kể. Vào thời điểm ngày 1/4/1974 dân số Sơn La là 326.500 người, sau 14 năm (so với thời điểm ngày 1/3/1960), tăng thêm 144.300 người. Từ ngày 1/4/1974 đến 1/4/2024 dân số Sơn La là 1.327.430 người theo kết quả điều tra dân số giữa kỳ năm 2024, đứng thứ 27 cả nước.
Tỉnh Sơn La có 12 dân tộc chủ yếu cùng sinh sống. Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 83,76%, bằng 7,33% dân tộc thiểu số của cả nước. Gồm: Dân tộc Kinh chiếm 16,24; Dân tộc Thái chiếm 53,25%; %; Dân tộc Mông chiếm 16,33%; Dân tộc Mường chiếm 7%; Dân tộc Dao chiếm 1,74%; Dân tộc Kháng chiếm 0,75%; Dân tộc Khơ Mú chiếm 1,3%; Dân tộc Xinh Mun chiếm 2,11%; Dân tộc La Ha chiếm 0,81%; Dân tộc Tày chiếm 0,05%; Dân tộc Lào chiếm 0,33%; Dân tộc Hoa chiếm 0,005%; Dân tộc khác chiếm 0,09% (số liệu thống kê năm 2023). Mật độ dân số và sự phân bố dân cư, thành phần dân cư có nhiều chuyển biến mới, đặc biệt sau các cuộc di chuyển dân từ miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới với quy mô lớn vào những thập niên 60, 70, 80, 90 của thế kỷ XX. Năm 1963, mật độ dân số tỉnh Sơn La 18 người/km2, năm 2024 là 96 người/km2.
Từ những thay đổi trong quy mô dân số, mật độ dân số và phân bố dân cư, kết cấu dân tộc ở tỉnh Sơn La trong suốt chiều dài lịch sử đã góp phần phản ánh quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, toàn diện của tỉnh Sơn La.
Vùng đất tỉnh Sơn La ngày nay, thời kỳ Hùng Vương thuộc bộ Tân Hưng, nước Văn Lang. Trải qua quá trình phát triển, đơn vị hành chính tỉnh Sơn La cũng có sự thay đổi.

Từ khi thực dân Pháp xâm chiếm vùng Tây Bắc (1886-1891), Sơn La thuộc phủ Gia Hưng - tỉnh Hưng Hoá. Ngày 27/2/1892, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Tiểu quân khu Vạn Bú, Thủ phủ đặt tại Vạn Bú gồm phủ Vạn Yên với các châu: Mộc, châu Phù Yên và phủ Sơn La gồm các châu: Sơn La, châu Yên, Mai Sơn, châu Thuận, Tuần Giáo, Điện Biên.

Nghị định số 996 ngày 10/10/1895 của Toàn quyền Đông Dương về việc toàn bộ tỉnh Vạn Bú và tỉnh Phả Lại trừ các tổng Tru-hu, Kiên-lao à Ha-hu được chuyển sang chính quyền dân sự. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh
Ngày 10/10/1895, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định xóa bỏ tiểu quân khu Vạn Bú, để lập tỉnh Vạn Bú thuộc đạo quan binh thứ 4 là vùng đất quân quản sang chế độ dân sự tỉnh lị đặt tại Vạn Bú. Với việc chuyển Vạn Bú sang chế độ dân sự, chính quyền thuộc địa cho rằng địa bàn này đã được bình định. Ngày 10/10/1895 trở thành thời điểm ra đời của tỉnh Vạn Bú (nay là tỉnh Sơn La), tỉnh lỵ đặt tại Pá Giạng, tổng Hiếu Trai.
Ngày 7/4/1904, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định chuyển trụ sở hành chính của tỉnh từ Vạn Bú về Sơn La và ngày 23/8/1904, đổi tên tỉnh Vạn Bú thành tỉnh Sơn La. Sau cách mạng tháng Tám 1945, trong kháng chiến chống Pháp, Sơn La lần lượt thuộc các Chiến khu II, Khu XIV, Liên khu Việt Bắc, Khu Tây Bắc. Từ năm 1948 đến tháng 01/1952, Sơn La và Lai Châu hợp nhất thành liên tỉnh Sơn - Lai. Ngày 12/01/1952, tách liên tỉnh Sơn - Lai thành 2 tỉnh Sơn La và tỉnh Lai Châu.
Sau hoà bình lập lại, từ tháng 5/1955 đến tháng 10/1962, Sơn La thuộc Khu Tự trị Thái - Mèo, không có cấp tỉnh. Ngày 26/10/1961, thị xã Sơn La - thị xã đầu tiên của vùng Tây Bắc được thành lập. Ngày 24/12/1962, tỉnh Sơn La chính thức được tái lập gồm: thị xã Sơn La và 7 huyện: Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Mường La, Sông Mã, Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn. Tháng 12/1975, Khu Tây Bắc giải thể, tỉnh Sơn La trực thuộc Trung ương, hai huyện Phù Yên và Bắc Yên chuyển về thuộc tỉnh Sơn La. Ngày 2/12/2003, Thủ tướng Chính Phủ ban hành Nghị định số 148/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện mới Sốp Cộp được chia tách từ huyện Sông Mã. Ngày 3/9/2008, Chính phủ ban hành Nghị định 98/2008/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Sơn La trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Sơn La. Ngày 10/6/2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 72/NQ-CP về việc thành lập huyện Vân Hồ. Ngày 14/11/2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1280/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của tỉnh Sơn La giai đoạn 2023 - 2025. Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị thành lập thị xã Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
Trước khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, tỉnh Sơn La có 10 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố, 200 xã, phường, thị trấn. Đảng bộ tỉnh có 17 đảng bộ trực thuộc, gồm 12 đảng bộ huyện, thị xã, thành phố, 03 đảng bộ lực lượng vũ trang (Quân sự, Công an, Bộ đội Biên phòng), Đảng bộ các cơ quan Đảng tỉnh, Đảng bộ Ủy ban nhân dân tỉnh.
Thực hiện chủ trương của Trung ương về việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, đến nay Đảng bộ tỉnh có 79 đảng bộ trực thuộc, gồm 75 đảng bộ xã, phường; 2 đảng bộ lực lượng vũ trang (Quân sự, Công an), Đảng bộ Các cơ quan Đảng tỉnh và Đảng bộ Uỷ ban nhân dân tỉnh, có 961 tổ chức cơ sở đảng (85 đảng bộ, 876 chi bộ), 2.891 chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở và đảng ủy cấp trên cơ sở với 94.843 đảng viên.
Những truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp và lịch sử cách mạng vẻ vang đã và đang là những nền tảng tinh thần vững chắc, tạo động lực mạnh mẽ, sức mạnh nội sinh quan trọng cho Sơn La hòa chung trong dòng dày lịch sử của cả dân tộc Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, khát vọng góp phần xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc…
(Còn nữa).
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!