Năm 2025, đánh dấu 130 năm thành lập tỉnh Sơn La (1895-2025) - chặng đường lịch sử của miền đất biên cương giàu truyền thống văn hóa. Trải qua hơn một thế kỷ đầy biến động, từ thời thuộc địa - nửa phong kiến, hai cuộc kháng chiến trường kỳ đến công cuộc đổi mới và hội nhập hôm nay, văn học Sơn La vừa như một cuốn biên niên sử bằng ngôn từ, vừa là tiếng nói tâm hồn của con người nơi đây.

Cội nguồn bản sắc và dấu ấn trí thức
Sơn La - nơi hội tụ 12 dân tộc anh em sinh sống đã kiến tạo nên một kho tàng văn học dân gian phong phú, đa dạng. Truyện thơ dân tộc Thái, như Xống chụ xon xao, Khun Lú Nàng Ủa... không chỉ là áng thơ tình yêu đôi lứa mà còn ẩn chứa triết lý nhân sinh, ca ngợi lòng dũng cảm, khát vọng công bằng và hạnh phúc. Các sử thi như Quam tô mương, Táy Pú Xấc lại là “cuốn sử bằng thơ” của cộng đồng, ghi chép sự hình thành bản mường, phản ánh mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, giữa cộng đồng với cộng đồng. Kho tàng dân ca từ khắp Thái, dân ca Mông, đang Mường vang vọng như tiếng lòng, vừa là hình thức giải trí, vừa là phương tiện truyền dạy đạo lý để con người sống nhân ái, thủy chung.
Sơn La không chỉ được biết đến với bản sắc dân gian mà còn ghi dấu trong văn học trung đại Việt Nam. Một trong những minh chứng tiêu biểu là bài thơ khắc trên vách đá của vua Lê Thái Tông tại động Thẳm Báo Ké, tức bài thơ Quế Lâm ngự chế. Đây là tác phẩm độc đáo, vừa có giá trị lịch sử, vừa giàu ý nghĩa nghệ thuật, trở thành dấu ấn quý hiếm của văn học trung đại Việt Nam tại Sơn La. Tác phẩm phản ánh hiện thực chính trị - xã hội vùng biên, khẳng định tầm quan trọng của Sơn La như một phên dậu quốc gia, nơi triều đình phải thường xuyên củng cố để giữ yên bờ cõi.
Văn học cách mạng - khát vọng tự do
Khi thực dân Pháp biến Sơn La thành trung tâm giam cầm những chiến sĩ cách mạng. Nhà ngục Sơn La - “địa ngục trần gian” lại chính là “trường học cách mạng” và cũng là “trường văn nghệ” đặc biệt. Nơi đây, báo Suối Reo được xuất bản bằng bút chì, than củi, giấy gói thuốc… nhưng trở thành ngọn đuốc soi đường cho hàng trăm tù nhân và quần chúng địa phương. Các bài ca cách mạng vang lên trong xà lim lạnh lẽo, vượt ra ngoài tường ngục, lan tỏa tới đồng bào Tây Bắc.
Kháng chiến chống Pháp, Sơn La là chiến trường quan trọng, gắn với các chiến dịch lớn. Giai đoạn này văn học tập trung phản ánh tinh thần chiến đấu kiên cường và tình quân dân gắn bó. Hình ảnh đồng bào các dân tộc gùi gạo, tải đạn, dẫn đường Bộ đội đã in dấu trong thơ ca, truyện ngắn, ký sự. Nhiều cây bút dân tộc Thái, Mường, như Hoàng Nó, Cầm Biêu, Lò Văn Mười, Lò Văn Cậy, Đinh Sơn... đã trưởng thành trong kháng chiến. Văn học thời kỳ này không chỉ ghi lại sự kiện, mà còn khắc họa sức mạnh đại đoàn kết dân tộc - sức mạnh làm nên chiến thắng Tây Bắc, Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Giai đoạn chống Mỹ, Sơn La tuy ở hậu phương nhưng vẫn là điểm nóng giao thông, là nơi đóng quân, huấn luyện và chi viện. Thế hệ nhà văn trưởng thành từ kháng chiến (Cầm Biêu, Vương Trung, Hoàng Nó, Đinh Sơn, Lò Văn Cậy, Lò Văn E…) vẫn tiếp tục cầm bút, nhuần nhuyễn hơn trong bút pháp, đằm sâu hơn trong tư duy. Một số tác giả đạt tới đỉnh cao sự nghiệp. Đồng thời, một thế hệ mới xuất hiện như Cầm Hùng, Đinh Ân, Sa Phong Ba…, mang đến sinh khí mới cho văn học địa phương. Văn học Sơn La trong kháng chiến chống Mỹ vì thế mang hai sắc thái: Bi tráng, với sự hy sinh mất mát và trữ tình, với khát vọng hòa bình, niềm tin ngày mai.
Có thể nói, từ nhà ngục Sơn La đến hai cuộc kháng chiến, văn học giai đoạn cách mạng và kháng chiến đã hình thành một bản anh hùng ca độc đáo, khẳng định vị trí của Sơn La không chỉ trong lịch sử đấu tranh dân tộc, mà còn trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại.
Văn học thời kỳ đổi mới - từ khúc ca xây dựng đến tiếng nói hội nhập
Sau 1975, Sơn La bước vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh và kiến thiết đất nước. Văn học phản ánh công trường, nông trường, thủy điện, hợp tác xã. Các cây bút Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lò Mười, Vương Trung, Đinh Ân, Đinh Tân vẫn tiếp tục sáng tác, trở thành lớp “nhà văn kháng chiến” bước vào xây dựng hòa bình.
Khi công cuộc đổi mới (1986) mở ra, một thế hệ mới xuất hiện: Mai Văn Tý, Nguyễn Đức Lãi, Hà Thu, Kiều Duy Khánh, Trần Nguyên Mỹ, Hoàng Lệ Thủy, Lương Mỹ Hạnh, Nguyễn Vũ Điền, Dương Thị Mùi, Nguyễn Thanh Sâm, Nguyễn Huyền Mến, Đặng Thị Thu…. làm phong phú văn học Sơn La bằng nhiều thể loại, từ thơ, truyện ngắn, ký sự, tản văn, bút ký, tiểu thuyết, làm cho văn học Sơn La có bước chuyển mình quan trọng. Các nhà văn chú ý khai thác mối quan hệ giữa truyền thống - hiện đại, bản sắc - hội nhập, mang đến tiếng nói mới mẻ, phản ánh chân thực hơn tâm tư các thế hệ vùng cao.
Đội ngũ tác giả dân tộc thiểu số tiếp tục khẳng định tiếng nói riêng, với các tác phẩm kết hợp chất liệu dân gian với hơi thở hiện đại, vừa giữ bản sắc, vừa góp phần vào sự đa dạng của văn học dân tộc. Mảng sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu nổi lên là các tác giả Đinh Ân, Hoàng Trần Nghịch, Lò Bình Minh, Cà Chung, Lò Thanh Hoàn, Đinh Liển, Đinh Văn Cung… Trong lĩnh vực lý luận - phê bình văn học, có Hoàng Kim Ngọc, Trần Đại Tạo, Lò Bình Minh... là những người hệ thống hóa, tổng kết, định vị văn học Sơn La trong dòng chảy chung.
Một số điểm nhấn đáng chú ý của văn học Sơn La sau đổi mới, đó là sự trở lại của chất liệu dân gian, nhiều tác giả mượn cốt truyện dân gian, hình tượng sử thi, ngôn ngữ dân ca để sáng tạo, làm cho tác phẩm vừa hiện đại vừa đậm bản sắc. Có thể nói, văn học sau 1975 và thời kỳ đổi mới đã đưa Sơn La bước ra khỏi phạm vi địa phương, để hòa nhịp cùng văn học quốc gia, vừa là tiếng nói riêng của miền núi Tây Bắc, vừa là một phần chung trong bản giao hưởng lớn của văn học Việt Nam hiện đại.
***
Văn học Sơn La là tấm gương phản ánh chân thực đời sống lịch sử - xã hội của 130 năm qua, giúp người đọc nhận ra quy luật vận động của lịch sử, đồng thời ý thức rõ vai trò, vị trí của vùng đất biên viễn. Về giá trị giáo dục, văn học dân gian dạy đạo lý thủy chung, hiếu nghĩa; văn học cách mạng khơi dậy lòng yêu nước, ý chí đấu tranh; văn học đương đại khuyến khích tinh thần lao động sáng tạo. Giá trị thẩm mỹ, từ ngôn ngữ giàu nhạc tính của khắp Thái, âm hưởng hùng tráng của sử thi Quam tô mương, đến những câu thơ đậm chất núi rừng trong sáng tác hiện đại - tất cả đã tạo nên một “mỹ học Sơn La” riêng biệt, vừa hồn nhiên vừa sâu lắng. Giá trị bản sắc văn hóa, Văn học Sơn La lưu giữ kho tàng văn hóa các dân tộc, từ điệu xòe, tiếng khèn đến những lễ hội gắn với mùa màng.
Bước sang giai đoạn mới, khi Sơn La đang vươn mình trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, văn học càng cần khẳng định vai trò gìn giữ và phát huy di sản dân gian, tập hợp, dịch thuật, nghiên cứu truyện thơ, sử thi, dân ca để vừa bảo tồn, vừa tạo nguồn cảm hứng sáng tác. Phát triển văn học đa ngữ, khuyến khích sáng tác bằng cả tiếng Việt và ngôn ngữ dân tộc thiểu số, để văn học thực sự là tiếng nói đa dạng. Đồng thời, hội nhập văn học quốc gia và quốc tế, đưa tác phẩm của tác giả Sơn La ra ngoài biên giới, thông qua dịch thuật, xuất bản, giao lưu. Ứng dụng văn học trong du lịch, giáo dục, biến di sản văn học thành nguồn lực phát triển du lịch văn hóa, giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử, đạo lý, bản sắc. Bồi dưỡng thế hệ sáng tác mới: xây dựng đội ngũ nhà văn trẻ, có năng lực, vừa gắn bó với bản sắc, vừa có tầm nhìn hiện đại.
Ngày nay, giữa nhịp sống hiện đại, văn học Sơn La vẫn tiếp tục là dòng suối trong lành chảy từ quá khứ đến hiện tại, tưới mát tâm hồn bao thế hệ, sẽ tiếp tục viết nên những trang mới, vừa thấm đẫm hồn cốt dân tộc, vừa chan chứa khát vọng hội nhập và phát triển bền vững.
Bạn còn 500/500 ký tự
Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!