Di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La - Biểu tượng của ý chí cách mạng kiên cường • Kỳ 1: “Địa ngục trần gian”

LTS: Nhà tù Sơn La được thực dân Pháp lập nên với âm mưu thâm độc để giam cầm, đày ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những chiến sỹ cộng sản Việt Nam. Nhưng trong chốn lao tù, dưới gông cùm đày đọa của kẻ thù, những người tù cộng sản bằng ý chí, nghị lực và niềm tin sắt đá vào sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc, đã quyết tâm và làm nên sự kiện vô cùng lớn lao và ý nghĩa - thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản tại Nhà tù Sơn La vào tháng 12 năm 1939, thắp lên ngọn lửa cách mạng nơi miền Tây Bắc; là cơ sở quan trọng hình thành Đảng bộ tỉnh Sơn La sau này. Nhân kỷ niệm 82 năm Ngày truyền thống Đảng bộ tỉnh Sơn La (26/12/1939 - 26/12/2021), Báo Sơn La có loạt bài về Khu di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, dựa trên những tư liệu lịch sử, hồi ký sinh động, chân thực của các chiến sỹ cách mạng từng bị giam cầm tại Nhà tù Sơn La.

Khu di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La.

Ảnh:PV

Năm 1904, thực dân Pháp chuyển tỉnh lỵ về Sơn La, đổi tên tỉnh Vạn Bú thành tỉnh Sơn La và cho gấp rút xây dựng trên đồi Khau Cả cơ quan hành chính quan trọng như: Tòa công sứ, nhà giám binh, trại lính khố xanh, đồng thời còn ráo riết chuẩn bị cho việc xây dựng tại đây một nhà tù... Đầu năm 1908, thực dân Pháp cho xây dựng Nhà tù Sơn La trên đồi Khau Cả rộng 1.217 m². Giai đoạn 1930- 1940, Nhà tù Sơn La được xây dựng, mở rộng và đổi tên thành Ngục Sơn La (từ Prison thành Penitencier) với mục đích biến nơi đây thành địa ngục để giam cầm, đày ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những người chiến sỹ cộng sản Việt Nam. Thực dân Pháp cho xây dựng hệ thống phòng giam tù nhân kiên cố và trang bị các ổ khóa, cùm chân, cùm tay, các công cụ kìm kẹp tù nhân và áp dụng các  hình thức tra tấn tù nhân vô cùng thâm độc, âm mưu đó đã lộ rõ trong bức mật thư của tên công sứ Sơn La Xanh Pu-nôp, gửi cho Thống sứ Bắc kỳ năm 1932: “... Xin ngài cứ tiếp tục gửi chính trị phạm lên Sơn La, bọn này nếu ở Hỏa Lò là những hạng hung hăng khó trị, thì rồi đây lên tới Sơn La, chỉ trong vòng 6 tháng thôi, vi trùng sốt rét sẽ làm cho chúng suy nhược và trở lên hiền hòa...”.

Đi đày
Sự dã man của chế độ thực dân Pháp đối với tù nhân chính trị ở Nhà tù Sơn La thể hiện ngay từ chặng đường chuyển tù nhân từ Nhà tù Hỏa Lò - Hà Nội lên Nhà tù Sơn La. Các tù nhân bị dồn lên ôtô bịt mui kín đưa đến Chợ Bờ (Hòa Bình), sau đó đi thuyền lên Suối Rút. Từ đây, tù nhân phải đi bộ 220 km để đến Sơn La. Dọc đường, chúng chia ra thành từng toán, mỗi toán trên 50 người, cứ 10 người xâu chung một dây lõi luồn qua xích tay (2 người 1 xích) thành một hàng đôi. Theo hồi ký nhiều tù nhân ghi lại, nhiều người đi bộ, chân đất đường rừng núi, chân phồng rộp, tứa máu đau rát, nên phải lấy áo quấn vào chân, mới đi được 220 cây số lên đến nhà ngục Sơn La. Đồng chí Trần Huy Liệu đã tả lại cảnh đó trong bài thơ: Đi đày ở Sơn La: “Một xích, hai thằng khắp đó đây; Ngủ ăn, đái, ỉa chẳng rời tay; Anh em ta thắt dây liên lạc; Trên bước đường xa, cát bụi đầy”.

Cơm tù

Mỗi bữa ăn đến tay tù nhân chỉ có một nắm cơm nếp nấu nhão, thậm chí lẫn cả trấu và sạn, ăn với muối trắng hoặc canh rau muống già nấu suông. Ngày lễ, tết bữa ăn được cải thiện hơn, mỗi người được vài miếng thịt lợn luộc chấm muối. Cai ngục không cho tù nhân bát đũa để ăn, vì sợ anh em sử dụng làm công cụ chống đối, nên 5, 7 người chung nhau một máng gỗ và ăn bốc khẩu phần cơm nếp nhão. Chúng còn quy định thời gian ăn, ai không nhanh miệng, nhanh tay không những bị đòn roi mà cơm, thức ăn còn bị đổ đi.

Toàn cảnh khu Chiềng Lề năm 1930.

Ảnh: Tư liệu

Các tù chính trị người xuôi bị đày lên nhà ngục Sơn La, việc ăn cơm nếp quanh năm rất khó khăn, mà lại là cơm nếp nhão, nhiều đồng chí bị giam cầm mấy năm rồi vẫn không thể quen nổi. Trong hồi ký, nhiều tù nhân kể lại: Khi ốm nặng, sắp qua đời, anh em xung quanh hỏi: “Đồng chí có nguyện vọng gì không?”; ngoài việc dặn dò chuyện chung, chuyện riêng, đồng chí ấy có tâm nguyện cuối cùng: “Ước gì cho mình xin được một miếng cơm tẻ để mình được nhắm mắt” và ánh mắt trào dâng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Anh em xung quanh chấm dòng nước mắt cho người đồng chí mà lòng đau thắt: “Ở đây kiếm ra đâu được cơm tẻ”.

Ăn thứ cơm nếp đó chỉ một thời gian, các tù chính trị đều phù thũng chân tay và đau buốt bụng. Bí mật cử người đi tìm hiểu thì phát hiện trước khi nấu cơm cho tù chính trị ăn, thực dân Pháp đã chỉ đạo ngâm gạo qua nước vôi trong, hạt gạo trông trắng ngần, ngon mắt, nhưng khi đó gạo đã mất chất tinh bột và vitamin, tù nhân ăn vào sẽ chết dần bởi bệnh phù thũng.

Lao động khổ sai

Mỗi sáng tinh mơ, khi sương đêm còn giăng kín sườn đồi, tiếng tù và đã giục giã tù nhân phải nhanh chóng xếp hàng ngũ, điểm danh phân thành từng kíp chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Những người ốm yếu cũng phải đi làm những công việc nặng nhọc như đục lỗ đặt mìn phá đá, khai thác gỗ, đẩy xe chở nước, cát, gạo... Có những lúc tù nhân phải đi bộ 3-4 ngày đường vượt hàng chục cây số, băng qua đèo cao, suối sâu đến Mai Sơn, Tạ Bú- Mường La chở gạo. Đi chậm, đi nhanh hay nói chuyện riêng đều bị đánh đập tàn bạo.

Một góc Nhà tù Sơn La bị máy bay Mỹ ném bom năm 1965 - 1967.

Ảnh: Tư liệu

Tại khoảng sân chung, thực dân Pháp còn thiết kế một bể nước ngầm với dung tích 50m³ nước. Hàng ngày tù nhân phải chở nước từ suối Nậm La (cách nhà tù khoảng 1 km) bằng những chiếc xe bò, mỗi ngày 2 tù nhân đẩy chung nhau 14 xe nước, đây là một trong những công việc lao động khổ sai cực nhọc tại Nhà tù Sơn La. Số lượng nước tù nhân lấy về rất lớn nhưng khẩu phần nước phân phát cho mỗi tù nhân thì rất ngặt nghèo, có những thời điểm thực dân Pháp chỉ cho tù nhân một ngày 1 ống bơ nước để sinh hoạt, 1 tuần chỉ phát 2 ống bơ bò để tắm.

Cùm chân tập thể

Theo tư liệu của Bảo tàng tỉnh, Khu trại ba gian có diện tích 294m², cao điểm khu trại 3 gian có thể giam khoảng 50 - 60 tù nhân, là nơi đây từng giam các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh (sau này là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam); Lê Thanh Nghị (sau là Phó Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam)... Thiết kế của trại giam 3 gian khác với các trại giam khác, sàn nằm của tù nhân bằng gỗ có gắn cùm chân chạy suốt theo chiều dài sàn nằm, hệ thống cùm này chúng chỉ thiết kế 1 kích cỡ chân duy nhất nhưng tù chính trị lại có nhiều kích cỡ chân khác nhau nên khi bị giam, ở chân các tù nhân thường bầm dập và ứa máu.

Trong hồi ký, các tù nhân chính trị kể lại: Công việc lao động khổ sai nặng nhọc, chế độ ăn uống kham khổ nên các tù nhân mắc bệnh phù thũng. Nhiều người phù nặng đến nỗi khi cho chân vào cùm, cai ngục sập cùm xuống và khóa lại, cổ chân chật khít trong các lỗ cùm,  không thể xoay trở, co ruỗi chân, máu không lưu thông được, nhiều đồng chí bị hoại tử, chết dần từ chân lên...

Nhà Giám binh Pháp trên đồi Khau Cả năm 1950.
Ảnh: Tư liệu

Với những tội ác dã man của thực dân Pháp, Nhà tù Sơn La được mệnh danh là địa ngục trần gian chỉ xếp thứ hai sau Nhà tù Côn Đảo. Theo số liệu thống kê, từ năm 1930 đến năm 1945 đã 14 đoàn tù nhân chính trị với tổng cộng 1.013 lượt tù nhân bị cầm cố ở Ngục Sơn La, trong đó giai đoạn 1930-1933 có số lượng tù nhân chính trị nhiều nhất, khoảng 500 chiến sỹ cách mạng bị cầm cố và cũng là giai đoạn có số lượng tù nhân chết nhiều nhất, gần 120 chiến sỹ cộng sản và người yêu nước bị giết hại, chết vì bệnh tật, gửi xác dưới nghĩa địa Gốc Ổi. Nhà tù Sơn La lúc đó được ví như “Chiếc quan tài mở nắp, chỉ chờ tù nhân tắt thở đem chôn”

(Còn nữa)

Phong Lưu
BÌNH LUẬN

Bạn còn 500/500 ký tự

Bạn vui lòng nhập từ 5 ký tự trở lên !!!

Tin mới